Lịch sử Bài học Israel
Chương VIII CHIẾN TRANH THỨ NHÌ NĂM 1956 GIỮA ISRAEL VÀ Ả RẬP
Các nguyên nhân xung đột. Cả hai bên Israel và Ả Rập đều biết rằng Hiệp ước năm 1949 chỉ tạo được một cuộc hưu chiến. Israel cần có một thời gian để tổ chức, kiến thiết quốc gia mà Ả Rập cũng cần có một thời gian để củng cố lại lực lượng. Vấn đề giải quyết như vậy chưa ổn vì còn nhiều nguyên nhân xung đột quá:
1. Trước hết là vấn đề biên giới. Người Ả Rập không chịu nhận biên giới đó: thiệt hại cho họ. Mà cũng không ai tin rằng biên giới sẽ vĩnh viễn như vậy; nó không tự nhiên, nó rất kỳ dị, không thể trường cửu được.
Chính quyền Israel có lẽ hả dạ vì được hưởng phần đất lớn nhất và mong được yên ổn trong một thời gian để khai thác hết nó đã, nhưng một số người Do Thái tham lam tuyên bố rằng đất đai của họ vẫn còn chật hẹp quá. Một ngày kia họ sẽ lớn lên - mà họ mau lớn làm sao! Trong có mấy năm cả triệu Do Thái ở khắp thế giới đổ về Israel thì chiếc áo họ đành tạm nhận năm 1949 sẽ phải nứt ra. Họ thường nhắc nhau lời Chúa hứa với Abraham trong Thánh kinh: Ta ban cho con cháu ngươi dải đất nằm từ sông Ai Cập (tức sông Nile) tới sông Euphrate và họ hy vọng mở mang bờ cõi từ núi Taurus (ở Tiểu Á) tới kinh Suez nghĩa là muốn nuốt trọn xứ Syrie, xứ Liban, xứ Jordanie, một phần xứ Iraq, xứ Ả Rập Saudi và xứ Ai Cập. Mới có quốc gia mà đã đòi làm thực dân!
Họ bất mãn về cái thẻo Gaza như một lưỡi dao kề bên sườn họ, bất mãn nhất về biên giới ở Jérusalem. Châu thành bị chia đôi, ở giữa là một dải phi chiến, họ mất bức tường Than khóc (nằm trong khu Jordanie). Hai bên dải này quân đội Israel và Ả Rập đi tuần suốt ngày đêm. Từ 1949 đến 1950, Israel đã tố cáo Ả Rập vi phạm hiệp ước đình chiến 1612 lần, Ả Rập cũng tố cáo Israel vi phạm 1348 lần: vượt biên giới, hoặc ở bên này bắn qua bên kia, phi cơ bay trên không phận của nhau, lại có cả vụ đốt phá lẫn nhau nữa. Không ngày nào là trên biên giới Israel- Jordanie không có vụ lộn xộn, nhiều vụ đổ máu xảy ra ngay gần mộ Đức Ki-tô.
Liên hiệp quốc mấy lần đề nghị quốc tế hoá châu thành đó, nhưng không bên nào chịu vì bên nào cũng ngờ rằng Liên hiệp quốc không sao kiểm soát kỹ được, thế nào cũng có sự lén lút đưa người và khí giới vào, như vậy thà cứ giữ hiện trạng mà Israel và Jordanie tự kiểm soát lấy khu vực của mình còn hơn.
Ở biên giới Gaza cũng vậy: luôn luôn có những vụ Ả Rập đương đêm lẻn qua quậy phá Israel rồi rút về; Israel truy kích chớp nhoáng rồi cũng rút về.
2. Thứ nhì là vấn đề dân Ả Rập tản cư. Khi chiến tranh mới bùng năm 1948, Israel cho phát thanh, rải truyền đơn, dán bố cáo yêu cầu dân tộc Ả Rập đừng đi đâu cả, tính mạng tài sản sẽ được bảo đảm. Ai mà tin được sự bảo đảm đó. Với lại đài phát thanh Ả Rập cũng hô hào họ tản cư, và đại bác Ả Rập nã vào đâu thì làm sao phân biệt được Do Thái với Ả Rập. Cho nên dân Ả Rập dắt díu nhau rút qua bên kia biên giới gần hết, trước sau trên nửa triệu. Họ không phải chỉ vì hốt hoảng mà trốn đi, một phần còn vì tinh thần quốc gia, một phần vì sợ những hành động tàn nhẫn của Do Thái nữa như tại miền Deir ở gần Jérusalem.
Chỉ một vụ tản sát - mà trong chiến tranh, tránh sao cho khỏi được - đủ làm cho những người Ả Rập tại các nơi khác không dám ở lại.
Hết chiến tranh chính phủ Israel chỉ cho một số ít người Ả Rập theo đạo Ki-tô trở về, còn những người theo Hồi giáo thì cấm ngặt. Họ cấm là phải, chính phủ nào mà muốn có kẻ địch ở trong nước? Rốt cuộc có đến trên nửa triệu người Ả Rập tản cư ở Jordanie, 220.000 người ở miền Gaza, 100.000 ở Liban, 90.000 ở Syrie, tổng cộng non 1.000.000 người. Không rõ hiện nay ra sao chứ năm 1956 họ vẫn ở tạm gần biên giới, ngày nào cũng đăm chiêu ngóng về cố hương. Những gia đình từ 15 đến 20 người chui rúc dưới những tấm bố căng lên che nắng và mưa, bên cạnh những đống rác. Không có trường học, không có nhà thương. Trẻ em thì đánh giầy ở Amman (Jordanie), mà người lớn thì ở không vì không có công việc gì để làm. Họ sống hoàn toán nhờ sự trợ cấp của Liên hiệp quốc: mỗi năm mỗi người lãnh 37 Mỹ kim, mỗi tháng ba Mỹ kim, phần lớn do Hoa Kỳ và Anh đóng góp. May lắm là họ không đói,(1) Nhưng hình như chỉ 500.000 người được trợ cấp thôi.
Họ có lòng tự ái rất cao, tới trẻ em cũng ăn mặc sạch sẽ, áo vá chứ không rách, và không bao giờ chịu đi ăn xin. Người ta đề nghị cho họ di cư lại các miền phong phú, kiếm công ăn việc làm, như tới Iraq, tới Darhan, tới Kuwait, họ nhất định không chịu, cứ ăn vạ ở đó, khăng khăng đòi về cố hương như các người Do Thái trước kia vậy. Họ chịu nhận cái kiếp lang thang tới nay đã hai chục năm rồi. Chúa của họ bao giờ mới cứu họ? Lịch sử nhân loại sao mà nhiều chuyện bi thảm đến thế.
Họ oán các xứ Ả Rập, Liban, Jordanie, Syrie, Ai Cập đã phản bội họ mà đầu hàng Israel; họ oán Liên hiệp quốc đã hy sinh họ cho Israel.
Không ai có thể trách họ được. Lòng yêu quê hương là một tình cảm mãnh liệt, lý trí không thể thắng nổi. Bảo họ đi nơi khác ở có sướng hơn không, họ đáp:
- Ở đây còn có hy vọng về xứ, chứ đi nơi khác thì bỏ luôn quê cha đất tổ ư? Chúng tôi sống được là nhờ hy vọng. Người Do Thái mất quê hương phiêu bạt mười mấy thế kỷ mà vẫn hướng về Jérusalem, thì tại sao các ông lại bảo chúng tôi quên quê hương được khi chúng tôi xa nó mới có mười mấy năm nay?
Lại thêm nỗi một số chính khách Ả Rập cũng không muốn cho họ đi nơi khác, để các dân tộc Ả Rập luôn luôn nhớ cái nhục chung mà không nguôi cái thù Do Thái.
Quốc vương Jordanie, Abdallah, vì không oán Do Thái kịch liệt như các lãnh tụ Ả Rập khác cũng có lẽ vì Mỹ - Anh hứa hẹn gì với ông ta chăng, năm 1950 muốn tìm một giải pháp, nên thương lượng ngầm với Ben-Gurion, do độc long tướng quân Moshe Dayan làm trung gian để đổi chác đất đai gì với nhau đó, nhưng bị ám sát ngày 21 tháng 7 năm 1951 vì tội “phản dân tộc”.
Thủ tướng Liban là Ayad Soth cũng mất mạng vì muốn điều đình với Israel. Ta nên nhớ Liban là một xứ chịu ảnh hưởng của phương Tây từ thời Trung Cổ và dân một nửa theo Hồi giáo, một nửa theo Ki-tô giáo.
3. Thứ ba là xung đột về tôn giáo. Một học giả và chính khách Pháp, ông Georges Vaucher, cựu Thư ký Uỷ ban Hồng Thập Tự quốc tế cựu Cao uỷ trong hoạt động quốc tế cứu trợ nạn đói ở Nga năm 1921-1922, sống ở Ai Cập hai mươi lăm năm, trong thế chiến vừa rồi làm đại biểu cho hội Hồng Thập Tổ quốc tế ở Tây Á cho rằng bi kịch Do Thái - Ả Rập khó mà chấm dứt được nguyên nhân không phải tại cái thế Israel chiếm đất, lấn đất, mà còn do tín ngưỡng của hai dân tộc đó nữa.
Người Do Thái nào cũng đọc kinh Cựu Ước, người Ả Rập nào cũng đọc kinh Coran mà trong hai kinh đó có nhiều đoạn làm cho hai dân tộc hiềm thù với nhau.
Chúng ta đều biết rằng khi đắc đạo rồi, muốn truyền bá “Chánh đạo”, Mohamed, nhà sáng lập Hồi giáo gom môn đồ lại mà bảo:
“Từ nay ta sẽ sống và chết với các ngươi, đời ta là đời của các ngươi, máu các ngươi là máu của ta, các ngươi thua là ta thua, các ngươi thắng là ta thắng. Hễ tụi dị giáo tấn công các ngươi thì các ngươi sẽ tắm trong máu của chúng!”
Hiện nay nhiều dân tộc theo Hồi giáo vẫn chưa bỏ cái quan niệm “thánh chiến” nguy hiểm đó.(2)
Đó là trong kinh Coran. Trong kinh Cựu Ước, ông Georges Vaucher đã trích dẫn nhiều đoạn rất có thể làm cho người Ả Rập bực mình mà tôi xin dịch ra dưới đây: (2)
“Ngày đó, đức Jahvé giao ước với Abraham rằng: “Ta cho dòng dõi ngươi xứ này, từ sông Ai Cập (Nile) tới sông cái kia, sông Euphrate, tức đất đai của dân tộc Kinit, Kenesit, Camonit, Kephaim, Amonit,Canan, Cohinlogarit và Gtebunit”.
Khu đất đó vì vậy mà có tên là đất hứa (Terre promise). Đất Do Thái được đức Jahvé cho lại sống ở đó và đức Jahvé còn hứa đuổi những giống thổ dân để cho Do Thái được sống một mình:
“Ta sẽ không đuổi chúng đi hết trong một năm đâu e rằng đất đó thành đất hoang mất mà loài thú rừng sẽ sinh sản làm hại ngươi (“ngươi” - tức dân tộc Do Thái); mà ta sẽ đuổi chúng dần dần cho tới khi dân số ngươi đông đúc đủ làm chủ đất đó được. Ta sẽ phân định bờ cõi cho ngươi từ Hồng Hải cho tới biển Philistin, từ Sa mạc tới Sông Cái và ta sẽ giao phó dân bản xứ cho ngươi và ngươi sẽ đuổi chúng đi”.
Biển Philistin tức là Địa Trung Hải, Sông Cái tức là sông Euphrate. Miền nói trung đoạn đó gồm Sinai, Syne và một phần sa mạc Ai Cập.
Sách Luật lệ ký (7), chương 17, tiết 16 cũng có câu:
“Ngươi phải diệt tất cả các dân tộc mà Jahvé Đức Chúa Trời sắp giao cho ngươi, mắt ngươi đừng đoái thương chúng và ngươi đừng thờ các thần của chúng”.
Đầu chương đó giọng còn mạnh hơn nhiều:
“Khi Jahvé, đức Chúa Trời của ngươi đã dẫn ngươi vô tới xứ mà ngươi sẽ làm chủ, và đuổi khỏi trước mặt ngươi nhiều dân tộc, tức Hetit, Giregasit, Amonit, Canaan, Pheresit, Hevit và Gtebunit, hết thảy là bảy dân tộc đông hơn ngươi và mạnh hơn ngươi; khi Jahvé, đức Chúa Trời đã giao phó cho ngươi, và ngươi đã đánh bại chúng, thì ngươi phải diệt hết chúng đi, đừng kết liên với chúng mà cũng đừng thương xót chúng. Ngươi đừng làm thông gia với chúng, đừng gả con gái cho con trai chúng, đừng cưới con gái chúng cho con trai mình, vì chúng sẽ dụ con trai ngươi lìa bỏ ta mà phụng sự các thần khác, mà cơn thịnh nộ của Chúa Trời sẽ bùng lên mà diệt ngươi trong nháy mắt đấy. Trái lại ngươi phải đối với bọn chúng như vầy: lật đổ bàn thờ của chúng đi, đập bể tượng thần của chúng đi, hạ các ngẫu tượng của chúng xuống, đốt các hình chạm của chúng đi.
Vì đối với Jahvé, đức Chúa Trời thì ngươi là một dân tộc thánh; Ngài đã lựa ngươi làm một dân tộc thuộc riêng về Ngài trong số tất cả các dân tộc trên mặt đất” (…)
Trong sách “Dân số kỳ”(7) chương 33, tiết 50, cũng dặn phải đuổi dân bản xứ đi, như “nhổ gai trong mắt”, “rút chông trong hông”. Rồi suốt cho tới Sách các “Tiên tri” ở cuối Cựu ước, còn nhiều đoạn làm cho người Ả Rập phải suy nghĩ:
“Ngươi sẽ chiếm được những thành lớn và đẹp mà ngươi không tốn công xáy dựng; sẽ chiếm được những nhà cửa đầy những của cải mà ngươi không mất công mua sắm; sẽ chiếm được những hố mà ngươi không phải đào, những cây nho và cây ô-liu mà ngươi không phải trồng”.
Tôi biết có, một số người cho trong kinh Cựu ước không chứa những tài liệu sử, mà những người Ki-tô giáo chỉ coi những điều chép trong kinh là những hình ảnh tượng trưng những thực thể siêu việt xảy ra trong thế giới tâm linh giữa Thiện và Ác, giữa Ánh sáng và Bóng tối, và những đoạn Vaucher trích đó nên hiểu theo một nghĩa khác - chẳng hạn, không phải là diệt các dân bản xứ - tức diệt chủng - mà diệt cái ác ở các dân đó, không phải là chiếm nhà cửa, vườn tược mà tìm được hạnh phúc tinh thần:, giải thích như vậy, nghe cũng xuôi xuôi nhưng chắc là không thuyết phục được mọi người, nhất là Ả Rập, và ngay cả đa số tín đồ Do Thái nữa. Nhưng tín đồ này tụng hoài những đoạn kích thích mạnh mê như vậy, sẽ có thái độ ra sao với người Ả Rập?
Sự xác định đi xác định lại rằng dân Do Thái là “dân tộc được lựa chọn”, rằng xứ Palestine và tất cả tài nguyên của nó thuộc quyền của dân tộc Do Thái đã gây ra những hành động quá khích, của một hạng người Do Thái năm 1948.
Sau Hiệp ước 1949, còn một số người Ả Rập sống chung với người Do Thái ở Israel. Khi đi qua những giáo đường của nhau, người Ả Rập nghe người Do Thái tụng những đoạn ở trên, người Do Thái cũng nghe người Ả Rập tụng những câu ca ngợi thánh chiến của Mohamed thì tâm lý họ, ra sao? Tôi chắc rằng có vô số người Do Thái cứ tin theo nghĩa từng chữ trong Thánh kinh và cho rằng nhiều đoạn tiên tri trong đó đã ứng nghiệm, chẳng hạn như những đoạn:
“Đức Jahvé sẽ bắt con cháu ngươi (tức Jacob, một tộc trưởng Israel sinh 12 con trai; thủy thổ của 12 bộ tộc Israel) phiêu bạt, sống chung vớt các dân tộc khác trên thế giới (…) Mà sống với các dân tộc đó chúng sẽ không được yên ổn, không có chỗ ớ đặt chân, sống giữa kẻ lạ, lòng chúng sẽ ưu tư. Đởi sống của chúng sẽ chập chờn vô định và chúng sẽ run sợ ngày rồi tới đêm”
Nhưng rồi đức Jahvé cũng sẽ tha thứ cho con cưng của ngài:
“Ta sẽ gom dân tộc ngươi lại, hỡi Jacob, sẽ gom con dân còn lại của Israel”.
“Ta sẽ đem tù dân Israel ta trở về; chúng sẽ xây dựng lại các thành bị phá và ở đó, chúng sẽ lập vườn nho và uống rượu nho, sẽ làm vưởn và ăn trái. Ta sẽ thấy chung nó trên đất của chúng nó và chúng nó sẽ không bị nhổ khỏi đất mà ta ban cho”.
Chính François Musard, một người Do Thái lai Pháp, tác giả cuốn “Israel, miracle du XX siècle”, còn tin vậy thì trách chi những người Do Thái ít học, như hạng Do Thái ở Yemen, ở Nga, ở Ấn Độ, ở Ả Rập mới hồi hương.
Mà một khi người ta đã tin những lời “tiên tri” đó là linh ứng thì làm sao người ta khỏi nghĩ rằng muốn không bị “nhổ khởi đất” mà Đức Jahvé đã ban cho thì hai triệu dân Do Thái phải tận diệt 50 triệu dân Ả Rập ở chung quanh. Nhưng 50 triệu dân Ả Rập ở chung quanh cũng phải thề với nhau tận diệt hai triệu dân Do Thái ở Israel để trung thành với Chúa Mohamed.
Lúc bình thường thì hạng bình dân, nước nào cũng lo làm ăn, sống yên ổn, rán theo ít nghi thức trong tôn giáo mình, chứ chẳng nghĩ gì đến những ý nghĩa thâm thuý trong các kinh thánh, nhưng khi có những sự xung đột về kinh tế, về chính trị thì luôn luôn có những người dùng đến sức mạnh của tôn giáo, của cuồng tín mà gây những cuộc tàn sát kinh khủng; mà những cuộc xung đột nào giữa hai dân tộc quốc gia ở thời này cũng có tính cách quốc tế luôn luôn có cường quốc này, cường quốc nọ xen vào, huých bên này, xúi bên kia làm hậu thuẫn hoặc đứng ngoài giật dây. Cuộc xung đột Do Thái - Ả Rập không ra ngoài định luật đó.
4. Nguyên nhân thứ tư là tinh thần quốc gia mới Ả Rập. Sau mấy thế kỷ bị Thổ đô hộ, tinh thần quốc gia của dân tộc xuống rất thấp, họ bị thao túng, không vùng vẫy lên được, nhẫn nhục chịu cảnh đàn áp của Thổ. Trong thế chiến thứ nhất một quân nhân mạo hiểm, một chính khách kỳ tài của Anh, đại tá T.E. Lawrence, qua sống chung với người Ả Rập, được họ tín nhiệm, yêu mến, tôn trọng, gọi là “ông vua không ngôi của Ả Rập”, ông ta hô hào họ đoàn kết với nhau để đuổi Thổ đi rồi hết chiến tranh sẽ được Anh, Pháp trả độc lập cho. Nhờ vậy tinh thần quốc gia của Ả Rập bùng lên được một thời.
Hết chiến tranh, Anh Pháp nuốt lời hứa, họ bị đàn áp, tinh thần đó lại bị nén xuống. Anh lại dùng chính sách “chia rẽ để dễ trị” và sau thế chiến vừa rồi các quốc gia Ả Rập không đoàn kết với nhau được.
Sự thực họ khó đoàn kết với nhau được lắm. Họ có một điểm chung là ngôn ngữ, nhưng ngôn ngữ không được thống nhất, còn giữ nhiều địa phương tính. Một điểm chung nữa là tôn giáo, nhưng Hồi giáo không phải là quốc giáo trong hết thảy các quốc gia, có quốc gia như Liban một nửa theo Hồi giáo, một nửa theo Ki-tô giáo, và lại Hồi giáo có tín đồ ở khắp thế giới chứ không phải chỉ trên bán đảo Ả Rập. Chính thể của họ cũng khác nhau nữa: hiện nay còn hai nước theo chế độ quân chủ: Jordanie và Ả Rập Saudi, còn các nước khác theo chế độ cộng hoà. Về kinh tế, họ cũng cách biệt nhau xa có nước rất nghèo như Ai Cập, chỉ sống về nghề nông mà đất trồng trọt được rất ít, chỉ là một dảì hẹp hai bờ con sông Nile; có nước rất giàu nhờ mỏ dầu lửa như: Ả Rập Saudi, Kuwait.
Tình trạng chia rẽ đó có hại ra sao, đại tá Nasser đã nhận thấy rõ trong cuộc chiến đấu với Ả Rập năm 1949. Ở mặt trận về ông buồn rầu nhận ra rằng mấy chục triệu Ả Rập thua nửa triệu Do Thải chỉ tại năm quốc gia Ả Rập tuy gọi là liên hiệp với nhau mà thực thì mỗi quốc gia chỉ mưu lợi riêng cho mình. Ông đã thấy Ai Cập không chịu giúp Transjordanie để cho Transjordanie thua ở Bab-el-wad; Transjordanie cũng bỏ rơi Ai Cập khi Ai Cập bị vây ở Fallouga; rồi Iraq thấy khó khăn rút lui trước.
Sau bao nhiêu thế kỷ bị ngoại thuộc, lần này là lần đầu tiên các dân tộc Ả Rập có dịp tỏ mặt với thế giới mà đành nuốt hận một cách nhục nhã như vậy thì làm sao còn dám tự hào là dòng dõi của Chéops, của Ramsès, của Mohamed được nữa. Và từ đó Nasser bỏ tinh thần quốc gia cũ hẹp hòi, nuôi một tinh thần quốc gia mới, tức tinh thần Ả Rập. Không có các dân tộc Ai Cập, Iraq, Syrie, Transjordanie, mà chỉ có mỗi một dân tộc Ả Rập thôi. Phải đoàn kết nhau lại thành một khối Ả Rập thì mới mạnh được. Sự đại bại năm 1949 là một cái may cho khối Ả Rập. Nhờ nó mà họ mới phẫn uất chịu suy nghĩ và tìm cách phục hưng.
Ông cùng một nhóm đồng chí, hầu hết là quân nhân hoạt động cách mạng và ngày 25-7-1952 truất được Farouk, quốc vương Ai Cập; hai năm sau, ngày 14-11-1954, ông làm Tổng thống của nước Cộng hoà Ai Cập. Việc đầu tiên của ông là thương thuyết để mời Anh rút quân ra khỏi Ai Cập. Anh hứa trong 20 tháng sẽ rút hết quân. Việc thứ nhì là lo thống nhất các dân tộc Ả Rập. Trong bài tựa cuốn “Sứ mạng của Islam (The Islamic Call) của một chính khách Mohamed, ông tản tụng sứ mạng truyền bá văn minh, nhất là sứ mạng thống nhất các dân tộc Ả Rập của giáo chủ Mohamed.
Đại ý ông bảo trong nửa cuối thế kỷ thử sáu, trước khi Mohamed ra đời thì thế giới sống trong cảnh bất công, trái với đạo Ki-tô, người ta chém giết nhau để tranh của cướp đất. Mohamed xuất hiện, đem lại sự thời bình, sự an toàn cho quần chúng, dạy mọi người thương yêu nhau, hợp tác với nhau. Nasser hô hào tất cả các người Ả Rập, tất cả các người theo Hồi giáo đoàn kết nhau lại thành một mặt trận để tiếp tục sứ mạng của Mohamed đã bị gián đoạn trong nhiều thế kỳ. Và ông hứa còn sống ngày nào thì nhất quyết thực hiện cho được mục tiêu đó. Để phục hưng tinh thần dân tộc Ả Rập, ông chứng thực sức mạnh của Ả Rập.
Trước hết là sức mạnh về dân số: Dân số Ả Rập tuy chỉ có ba bốn chục triệu, nhưng số người theo Hồi giáo thì rất đông, cộng cả lại ở khắp thế giới được 400 triệu người, hơn Mỹ và Nga, chỉ kém Trung Hoa và Ấn Độ, và dĩ nhiên, theo ông, 400 triệu người đó phải đoàn kết với nhau.
Lẽ thứ nhì là địa thế bán đảo Ả Rập rất quan trọng: nó là cái bản lề của ba châu Âu, Á, Phi. Nếu Ả Rập mạnh lên thì nó có thể cầm đầu châu Phi ảnh hưởng lớn đến Âu, Á. ông hăng hái tuyên bố: “Bắc Phi là một phần của chúng ta, và chúng ta cũng là một phần của Bắc Phi”. “Mỗi dân tộc châu Phi đều là anh em và láng giềng với nhau thì người ta có bổn phận phải giúp đỡ lẫn nhau.
Lẽ thứ ba là bán đảo Ả Rập có tới 50% dầu lửa trên thế giới (12), mà dầu lửa là nhiên liệu quan trọng nhất ở thời này. Không những sức sản xuất đã mạnh mà phí tổn lại rất thấp, chỉ bằng một phần tám phí tổn ở Hoa Kỳ.
Vừa mới thu hồi được chủ quyền mà Nasser đã chủ trương như vậy, làm cho nhiều người coi cuốn “The Islamic Call” là một loại với cuốn Mein Kamp (Cuộc chiến đấu của tôi) của Hitler và bảo «Nasser với Hitler» một vần. Chẳng ngoa chút nào.
Muốn liên kết các quốc gia Ả Rập thì không có gì bằng thổi bùng lên ngọn lửa căm thù Do Thái.
Một triệu người Ả Rập tản cư ở biên giới Israel, nỗi nhục thất trận năm 1949, những đoạn gay gắt trong Coran và Cựu Ước sẽ là chất hồ kết chặt tình anh em của các quốc gia Do Thái. Các nhà lãnh đạo Iraq, Syrie, Ai Cập đều hiểu như vậy và nhà nào cũng muốn tiếp tục sự nghiệp của Mohamed nhưng chỉ có Nasser là được đa số dân chúng Ả Rập ngưỡng mộ hơn cả, vì ông là một nhà ái quốc vốn ghét bọn thực dân Tây phương, lại là nhã lãnh đạo có tài nhất, can đảm nhất trong khối Ả Rập: Ngay Ben-Gurion cũng phải nhận như vậy:
“Tôi trọng sự thông minh của Nasser, ông ta là nhà lãnh đạo độc nhất của khối Ả Rập được quần chúng và quân đội ủng hộ”.
Vậy Nasser nuôi cái mộng thống nhất Ả Rập. Có kẻ bảo Ai Cập quả nghèo, không có cách nào phú cường được, dù có khuếch trương kỹ nghệ, cải thiện nông nghiệp thì cũng chỉ đủ bù vào sự gia tăng dân số, cho nên Nasser phải thôn tính các quốc gia Ả Rập khác để chia nguồn lợi dầu lửa của họ, và muốn thôn tính thì phải lập được một công lớn gì cho toàn khối Ả Rập, công đó chì có thể là diệt Do Thái.
Nói vậy là không hiểu ông ta, ông ta có cái mộng lớn hơn nhiều: diệt Do Thái, thống nhất Ả Rập, rồi cầm đầu khối thứ ba, chống hai khối Nga, Mỹ nữa, cho nên mấy tháng sau khi cầm quyền, ông đã chống hiệp ước Bagdad (1955) đo Anh, Mỹ ký với Thổ, Iraq, Iran, Pakistan để chống Nga Sô, lấy lẽ rằng nước yếu mà liên kết với nước mạnh thì chỉ để cho họ lợi dụng, sai khiến thôi; rồi kế đó cùng với Nehru, Tito, Soekarno đi dự hội nghị Bandoeng để thành lập khối Á Phi.
Ông biết mộng đó còn xa vời, việc trước mắt là trừ cái ung nhọt Do Thái đã.
* * *
Ả Rập khiêu khích, Do Thái phản công. Ngay từ khi hiệp ước 1949 mới ký xong, các quốc gia Ả Rập đã quyết tâm xé bỏ nó rồi.
Thủ tướng Syrie tuyên bố trước quốc hội Damas:
“Không thể quan niệm rằng có hoà bình với Israel. Người Ả Rập không khi nào chịu hoà bình. Chúng ta đã thua keo đầu. Chúng ta sửa soạn keo sau”.
Quốc vương Jordanie, Hassein, cháu nội của Abdallah cũng nói: “Không khi nào có hoà bình mà cũng không thể thương thuyết gì với Israel được!”.
Bộ ngoại giao Ai Cập cũng bảo: “Chúng ta đây ngưng chiến nhưng chúng ta vẫn ở trong tình trạng chiến tranh với Israel”
Và quốc vương Ả Rập Séoudite là Saud cũng hô hào dân chúng: “Phải bứng Israel cho hết rễ đi. Chúng ta hết thảy là 50 triệu người Ả Rập, nếu cần thì hy sinh 10 triệu người để sống yên ổn trong danh dự”.
Nhất là từ khi Nasser lên làm quốc trưởng thì không ngày nào đài phát thanh Le Caire không hô hào các quốc gia Ả Rập khác đoàn kết nhau lại để diệt Israel.
“Ngày cáo chung của bọn Do Thái đã tới!”
“Israel nhất định sẽ bị xoá bỏ trên bản đồ thế giới!”
“Kẻ thù của Ả Rập là Do Thái.
“Phải diệt đế quốc Israel!”.
“Israel là một quốc gia nhân tạo, sẽ bị tiêu diệt!” v.v…
Các đế quốc Âu, Mỹ tất nhiên đổ thêm đầu vô, hoặc ít nhất cũng lợi dụng cơ hội để bán khí giới cho cả bai bên: Israel và Ả Rập.
Lúc đó (1955) Ai Cập muốn nhờ Mỹ cung cấp khí giới, Mỹ ngại Ai Cập diệt được Israel, thống nhất được khối Ả Rập thì những giếng dầu của Mỹ ở bán đảo Ả Rập sẽ khó giữ được, cho nên do dự, đưa ra những điều kiện khó khăn cho Nasser. Nasser đành quay về phía Nga. Nga từ trước vẫn muốn hất chân Anh, Mỹ ra khỏi Ả Rập, nên vui vẻ nhận lời, tức thì khí giới của Tiệp Khắc (chư hầu Nga) tuôn vào Ai Cập, Jordanie, Iraq (trong chiến tranh Israel - Ả Rập năm 1948-1949, Tiệp đã giúp khí giới cho Israel, vì lúc đó có cảm tình với Israel, ghét Anh và phe Ả Rập được Anh giúp đỡ). Israel tất nhiên cầu cứu với Anh, Pháp), và khí giới hai nước này tuôn vào Tel Aviv, nhưng Anh cũng cần giữ cảm tình với Jordanie, Iraq, không quên giúp khí giới cho hai xứ này.
Bên nào cũng có đầy đủ khí giới thì tất nhiên những vụ xung đột ở biên giới tăng lên: ở Gaza, một số dân Ả Rập tản cư đêm đêm lẻn qua cướp đồ đạc, súc vật mà trước kia họ phải bỏ lại. Quân đội Israel bèn tấn công Gaza, giết 46 người lính và thường dân Ả Rập (1955). Ở bờ sông Jourdain, biên giới Israel - Jordanie, cũng xảy ra thường những vụ nổ súng vào nhau. Cuối năm 1955 một đội quân Do Thái vượt hồ Tibériade, qua biên giới Syrie giết 40 người Ả Rập và cầm tù một số khác.
Liên hiệp quốc cố hoà giải nhưng không sao dập tắt được các cuộc gây hấn.
Năm 1955, chính quyền Israel thấy chiến tranh không sao tránh được, phái Golda-Maeyerson mời Ben-Gurion ở sa mạc Neguev về Jérusalem để lãnh chức Bộ trưởng quốc phòng, ông phải xuất chinh lần nữa và ít lâu sau lại được bầu làm thủ tướng. Chúng ta biết ông là người ưa dùng phương pháp mạnh và bao giờ cũng ra tay thước. Lần này ông cũng chuẩn bị rồi chờ cơ hội.
***
Vụ quốc hữu hoá kênh Suez và chiến tranh Ai Cập - Israel 1956. Cơ hội đã tới ngày 26 tháng 7 năm 1966, Nasser tuyên bố quốc hữu hoá kinh Suez, ông bực mình rằng Mỹ đã hứa giúp ông tiền để xây đập Assouan trên sông Nile. Rồi thấy ông mua khí giới của Tiệp Khắc, xích lại phe Nga mà nuốt lời hứa, nên ông quốc hữu hoá sông Suez để lấy tiền xây đập Assouan. Trước một đám đông 250.000 người ở Alexandrie, Nasser bình tĩnh cho quốc dân hay số lời của kinh Suez năm 1955 là 100 triệu Mỹ kim, mà Ai Cập chỉ được hưởng ba triệu; quốc hữu hoá rồi, Ai Cập hưởng hết số tiền, sẽ xây được đập Assouan mà dân Ai Cập sẽ khỏi bị chết đói. “Anh em nghe tôi này: kinh Suez hiện nay là của Ai Cập. Muốn sao thì sao nó cũng sẽ là của Ai Cập”.
Quần chúng gầm lên la hét, cười, nhảy như điên như dại. Dulles (Mỹ), Eden (Anh) và Mollet (Pháp), tím mặt. Họ doạ dẫm, rồi Mỹ vuốt ve, Nasser nhất định không lùi bước.
Vấn đề đưa ra Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc (5-10-1956), giải quyết sắp xong (Tổng Thư ký Liên hiệp quốc lúc đó là Hammarskjoeld) thì bỗng có tin một đội quân nhảy dù Do Thái đáp xuống trung tâm bán đảo Sinai rồi chiến xa túa vào Luhtilla. Cả thế giới ngơ ngác không hiệu tại sao. Nhất là khi hay tin đúng vào giờ đó, Mollet và Eden đã gởi tối hậu thư cho Israel và Ai Cập, buộc phải rút lui về 16 cây số, cách hai bờ kinh Suez để cho liên quân Anh - Pháp tới chiếm đóng từ Port Saïd tới Suez mà bảo vệ sự tự do lưu thông trên kinh Suez.
Nguyên do là Anh, Pháp và Israel âm mưu với nhau tấn công chớp nhoáng Ai Cập để hạ bệ Nasser.
Quốc hữu hoá kinh Suez, Nasser chỉ nhắm vào Mỹ, Anh, Pháp chứ không chủ ý hại Israel. Mỹ biết lỗi vì mình ( nuốt lời hứa với Ai Cập về vụ xây đập Assouan), không có quyền lợi gì nhiều ở kinh Suez, mà lúc đó tổng thống Eisenhower lại sắp ra ứng cử lần thứ hai, nên muốn thu xếp vụ đó cho êm.
Anh, Pháp thì trái lại có rất nhiều quyền lợi nên không muốn hòa giải ngầm, chuẩn bị để đập Nasser.
Israel thấy mấy năm nay Nasser hung hăng quá, nắm lấy cơ hội, tự nguyện làm tay sai cho Anh, Pháp để tấn công Ai Cập, lật đổ Nasser, tin chắc rằng lần này thế nào Ai Cập cũng thua tơi bời và Israel sẽ được sống yên ổn. Có lẽ Israel cũng lo rằng kinh Suez mà quốc hữu hoá thì Ai Cập sẽ cấm Israel dùng nó, thiệt cho Israel.(13)
Ben-Gurion bay qua Paris, tiếp xúc bí mật với Guy Mollet, đề nghị Israel sẽ lấy cớ rằng Ai Cập đưa máy bay và xe tăng vào bán đảo Sinai mỗi lúc một nhiều, nguy cho sự an ninh của Israel, mà sẽ tấn công chớp nhoáng, chiếm bán đảo đó, liên quân Anh, Pháp sẽ có một cớ chính đáng, vị tha để can thiệp, ra lệnh cho hai bên Israel và Ai Cập rút quân ra cách bờ kinh 16 cây số. Tất nhiên Ai Cập sẽ không chịu tuân, Anh, Pháp sẽ đàng hoàng đem quân vô chiếm con kinh và Nasser sẽ bị lật đổ và thế giới sẽ mang ơn Anh, Pháp.
Mollet nghe bùi tai, thuyết phục Eden và bộ ba Anh, Pháp, Israel chuẩn bị rất tỉ mỉ, rất khoa học cuộc chiến mà không cho dân chúng hay để giữ bí mật hoàn toàn.
Lúc chiến tranh nổ ra, Mỹ bực tức mạt sát Anh, Pháp, Israel:
“Họ muốn tiến tới kinh Suez ư? Được, nhưng họ phải đi qua Điện Biên Phủ.
Đảng lao động Anh mắng vào mặt Eden:
- Xuẩn động.
Mendès France cảnh cáo Guy Mollet là sẽ chịu những hậu quả bi thảm…
Nassel bình tĩnh ra lệnh cho quân đội rút lui để mặc Israel chiếm bán đảo Sinai, và sai đánh đắm tàu để bít kinh Suez. Cả thế giới bất bình, đứng về phe Ai Cập, tố cáo Anh, Pháp, Israel là đã gây chiến tranh.
Tướng Moshé Dayan, Tổng tham mưu trưởng quân đội Israel đã tổ chức cuộc xâm lăng một cách chu đáo, tỉ mỉ, mọi việc tính trước từng ngày, từng giờ. Ông lại được Pháp phái ba chiến hạm tới trợ chiến ở bờ biển Israel và Sinai, được Anh, Pháp ủng hộ tinh thần, vì quân đội Anh chưa tới kịp, nên chỉ trong sáu ngày chiếm trọn bán đảo Sinai.
Chiều ngày 29-10-1956, một đội nhảy dù đáp xuống Mitla, một nơi cách kênh Suez 60 cây số. Một đạo quân có chiến xa băng qua sa mạc, sáng hôm sau chiếm được Thamed. Một đạo quân nữa chiếm Ras El Nagb, rồi Nakhel, và trợ lực đội nhảy dù ở Mitla. Một đạo quân thứ ba tấn công Kouseima, Abu Ogeila rồi tiến tới Gifgafa, đẩy lủi được quân đội Ai Cập xuất phát từ kinh Suez..
Ở phía Bắc, một đạo quân nữa chiếm thẻo đất Gaza rồi tiến theo bờ biển tới kinh Suez.
Thiết giáp Israel tiến rất mau. Hai bên đánh sát lá cà ở Mitla. Đồn Oumn Shihan và Oumn Kalef chống cự kịch liệt, nhưng khi chiến xa và bộ binh Israel đã chiếm được đồn Rafah, cắt lực lượng Ai Cập ở Gaza, và chiếm được Misfag vào chiều tối ngày 1-11-1956 thì bán đảo Sinai coi như hết chống cự nổi nữa rồi.
Khi trên không phận Sinai không còn phi cơ Ai Cập nữa, Israel tiến theo bờ vịnh Akaba xuống mũi ở phía nam bán đảo. Từ ngày 2-11-1956 chỉ còn những cuộc tảo thanh nho nhỏ. Oumn Shihan đầu hàng và Israel bắt được 700 tù binh.
Cũng ngày hôm đó quân Israel thắng trận Gifgafa và tiến tới bờ kinh. Hôm sau các giếng dầu của Sinai bị chiếm và ngày 5-11, đồn Shaim Elsheik ở phía nam bán đảo hết chống cự.
Tổn thất của Israel rất ít: 180 người chết, vài trăm thương binh, chỉ có một người bị bắt làm tù binh, một phi công bị thương khi máy bay rơi sau trận tuyến Ai Cập. Nhưng tỉ số sĩ quan chết rất cao vì họ can đảm xung phong tới trước.
Ai Cập mới đầu chiến đấu khá hăng, nhưng bị tấn công bất ngờ, trở tay không kịp; sau được lệnh rút lui về phía tây bờ kinh. Truyền đơn trút xuống đầy đường:
“Hỡi dân chúng Ai Cập!
Chúng tôi bắt buộc phải dội bom các người, bất kỳ là các người ở đâu! (…) Các người đã mắc một tội mà các người sẽ phải trả bằng một giá đắt. Các người đã tin và ủng hộ Gamal Abdel Nasser”
Và họ đã dội bom thật, dội bom một cách tàn nhẫn, suốt ngày đêm, dữ dội hơn cả hồi Đức Quốc xã dội xuống London. Nhưng họ càng dội thì dân chúng càng sát cánh với Nasser, dân chúng Anh, Pháp càng chỉ trích chính phủ, không khí tại Liên hiệp quốc càng nghẹt thở, đòi Israel, Anh, Pháp phải ngưng cuộc xâm lăng lập tức.
Thấy Liên hiệp quốc có những quyết định gấp, chính quyền Anh , Pháp càng quýnh lên, thúc quân đội tiến thật mau, để chiếm trọn Ai Cập ít nhất là Le Caire, Alexandrie, Suez và lật Nasser, trước khi quân đội Bảo an của Liên hiệp quốc can thiệp. Hai bộ tham mưu Anh, Pháp lại hội họp với nhau để bàn về chương trình hành quân, chưa kịp quyết định thì có tin Ben-Gurion chịu ngưng chiến.
Pháp hoảng hốt: Israel và Ai Cập chịu ngưng chiến thì lấy cớ gì để can thiệp bây giờ? Paris đánh điện hỏi Tel Aviv. Ben-Gurion trả lời Guy Mollet rằng người ta hiểu lầm đấy, hai bên thực sự ngưng bắn nhau, nhưng như vậy không phải là Israel đã chịu nhận sự ngưng chiến về phương diện pháp lý.
Mollet thở ra khoan khoái và liên quân Anh, Pháp lại tiến gấp. Sáng ngày 5-11 tấn công Port Saïd. Ở trên không họ thả dù xuống, ở dưới biển họ nã súng lên. Họ đổ bộ, chiếm từng con đường, từng ngôi nhà một. Ai Cập chiến đấu anh dũng. Trẻ con cũng cầm súng, phụ nữ, thì tiếp tế khí giới.
Mục tiêu của Anh Pháp là chiếm xong Port Said rồi chiếm hai bờ kinh Suez một cách chớp nhoáng, khi Liên hiệp quốc can thiệp thì đã trễ, việc đã xong và có lẽ Nasser cũng bị lật rồi nữa.
Liên hiệp quốc nổi dóa: sẽ mất mặt thôi. Ngày 5-11-1956, Nga đòi các nước phải hợp lực nhau nhất là Nga và Mỹ để chặn đứng “ba tên giặc” đó lại, đừng để cho chúng bôi nhọ cơ quan tối cao của thế giới. Nga tự nguyện sẽ đem không quân và hải quân lại Ai Cập. Đại biểu các nước khác, còn phân vân: “như vậy là tưới thêm dầu vào lửa, chứ không cứu vãn được hoà bình”, thì đại biểu Nga doạ:
- Có thể vụ này gây ra chiến tranh đấy, các ông chịu lấy trách nhiệm với nhau.
Rồi ôm cặp ra về, sau khi phân phát cho mỗi hội viên một bản sao ba bức tối hậu thư của Bulganin gởi cho Mollet, Eden và Ben-Gurion.
Nửa đêm hôm đó Mollet đọc:
“Châu thành và làng mạc Ai Cập bị dội bom một cách dã man… Nước Pháp sẽ ở trong tình trạng ra sao nếu bị những khí giới, ghê gớm của các nước khác tàn phá? Tôi cần cho ông hay rằng…”
Eden đọc:
“Nếu hoả tiễn dội xuống Anh và Pháp thì các ông cho như vậy là dã man: Nhưng hành động của các ông ở Ai Cập hiện nay có khác gì không?”.
Còn Ben-Gurion thì tái mặt:
“Các ông đã tuân lệnh người mà hành động như nhưng kẻ sát nhân mà coi thường sinh mạng dân tộc ông. Tương lai quốc gia Israel lâm nguy đấy? Đại sứ Nga ở Tel Aviv đã được lệnh về Moscow liền”.
Eden và Mollet hỏi nhau, ngờ vực không rõ Nga muốn làm thật hay chỉ doạ già.
Pháp hăng máu nhất, bất chấp tối hậu thư. Anh rụt rè hỏi Mỹ, Mỹ đáp:
- Nếu cứ ương ngạnh giữ thái độ đáng tội đó thì đừng mong chúng tôi giúp nữa. Ngưng chiến ngay đi!
Lúc đó Pháp mới hoảng: Chính phủ Pháp tuyên bố với dân chúng rằng số dầu, xăng dự trữ trong nước đủ dùng trong bốn tháng mà sự thực chỉ đủ dùng có nửa tháng. Kinh Suez đã bít ba bốn ngày rồi, không một quốc gia Ả Rập nào chịu bán xăng cho Anh, Pháp nữa. Chỉ còn mười ngày nữa là hết xăng; các nhà máy, xưởng hãng, xe hơi, phi cơ lấy gì mà chạy, thợ thuyền sẽ thất nghiệp hết, kinh tế Pháp sụp đổ. Nếu Mỹ mà không giúp thì chết chắc chắn. Lúc này mới thấy xăng là máu của quốc gia và vì nó mà minh phải lệ thuộc Mỹ nhiều quá.
- Nếu Nga tấn công thì Mỹ có bênh vực không?
Mỹ trả lời chỉ bênh vực Anh, Pháp trong trường hợp Nga dội bom hay bắn lên chính địa phận của Anh, Pháp: Còn nếu Nga dội bom hay bắn vào quân đội Anh, Pháp ở Ai Cập thì Mỹ không thể can thiệp được.
Eden toát mồ hôi. Suốt đời chính trị của ông, chưa có lần nào khổ tâm, nhục nhã như vậy. Ấn Độ doạ rút ra ngoài Cộng đồng thịnh vượng, Tích Lan sẽ theo chân. Cả khối Ả Rập chửi rủa ông: Dân chúng la ó ông. Một nghị sĩ đảng Lao động bảo ông:
- Nếu chính phủ muốn áp dụng luật rừng rú, thì chính phủ nên nhớ rằng Anh và Pháp không phải là những con thú mạnh nhất trong rừng đâu. Còn nhiều mãnh thú nguy hiểm hơn nữa đương rình ở chúng quanh đấy!”
Ông ta ăn không được, ngủ không được, mắt hõm xuống; chân tay lẩy bẩy, bệnh trái mật tái phát hành hạ suốt đêm ngày, ông ta hào hển bảo Mollet:
- Tôi chịu không nổi nữa. Mọi người bỏ rơi tôi. Các cộng sự viên của tôi, từ chức hết rồi, một vạn người biểu tình ở Trafangar Square đòi tôi về vườn. Ấn Độ, Tích Lan, Canada, Úc đòi tuyệt giao: Mỹ không chịu cung cấp dầu lửa cho tôi nữa. Đồng Bảng chắc phải phá giá thôi. Ghê gớm quá!
Mollet năn nỉ:
- Chỉ còn chút xíu nữa là tới đích mà bỏ dở thì tức chẽt đi được. Gắng lên, ông bạn. Nga doạ già đấy mà. Họ có làm thật thì cũng phải chuẩn bị ít nhất là vài ngày chứ. Chúng mình chỉ cần 48 giờ nữa là chiếm trọn kinh Suez.
Không, tôi buông xuôi. Tôi đã ra lịnh 19 giờ phải ngưng bắn.
Mollet nói riết, Eden mới chịu hoãn thêm vài giờ nữa và quyết định là đúng 23 giờ 59phút thì ngưng bắn, không được kéo đài thẻm một phút nào nữa.
Mollet liền đánh điện cho Tham mưu trưởng ở Ai Cập:
- Có lẽ sắp có lệnh ngưng bắn vào 24 giờ ngày 6-111. Vậy phải chiếm đất cho thật nhiều vào: Mà lệnh đó là lệnh ngưng bắn chứ không nhứt định là phải ngưng tiến.
Nghĩa là tới 24 giờ ngày 6-11 còn tiến được mà không phải bắn thì cứ tiến, tiến cho thật mau, chiếm được càng nhiều đất càng tốt!
Sáng hôm 6-11, tướng Anh cho đổ bộ lên Port Said rồi liên quân Anh, Pháp tiến theo bờ kinh Suez:
Nhưng tới 14 giờ 22 phút, Mỹ nhận được tin “mật” này:
“Phản lực cơ bay trên không phận Thổ. Không quân Thổ ở trong tình trạng báo động”
Phản lực cơ nào đây mà bay trên đất Thổ? Rồi tiếp hai tin nữa:
“Từ Syrie có khoảng 100 chiếc phi cơ Mig 15 và 100 thiết giáp xa tiến vô cõi”.
“Từ Chypre: Một phi cơ Anh bị hạ ở trên cao 13.500 thước”.
Đích thị là Nga rồi, còn ai vào đây nữa?
Anh cũng nhận được tin:
“Từ Chypre, radar báo rằng có phi cơ bay rất cao ở trên đảo”.
Pháp cũng nhận được:
“Nga xin Thổ cho phép 5 chiến hạm qua eo biển Dardanelles”
“Tin mật: Có 6 tiềm thủy đỉnh Nga. Ở Alexandrie và khoảng 250 người nhái”.
Đúng là Nga làm thật chứ không phải doạ già.
Nguy quá. Anh, Pháp vội đánh điện, cho Tổng tư lệnh quân đội của mình ở chiến trường Ai Cập, bảo phải ngưng bắn đúng 23 giờ 59 phút, không được trái lệnh. Ngày hôm đó họ rán tiến thật mau, nhưng Pháp cứ phải chờ Anh, không dám tiến một mình vì không dám nhận trách nhiệm một mình, mà Anh thì chậm chạp, trục trặc nhiều chuyện. Khi được lệnh ngưng bắn, họ bực tức không hiểu tại sao chỉ còn có 24 giờ nữa là chiếm trọn kinh mà phải ngừng? Và đúng 23: giờ 59 phút, hai đoàn chiến xa tới cây số 147 trên kinh Suez rồi ngừng lại y như “chết giấc” vậy, họ mới tới El Cap, tiến được phần tư đường!
Sau này Anh, Pháp mới hay rằng những “tin mật” đó do một kẻ nào đó loan bậy ra, các bộ Tham mưu của họ hoảng hốt mắc mưu hết! Uổng quả! Chỉ còn 24 giờ nữa!
Nhưng quả thật là Khroushchev đã thành lập một đạo quân tình nguyện gồm 500 phi công và 100 viên chỉ huy biệt động quân, hết thảy đều là những người theo Hồi giáo để qua cứu Ai Cập.
***
Hậu quả của 8 ngày chiến tranh. Thế là chiến tranh chớp nhoáng nhất trong lịch sử đã kết liễu: trước sau chỉ có tám ngày: từ 17 giờ ngày 29-10 đến 24 giờ ngày 6-11-1956. Quân sĩ Anh, Pháp hận rằng không tiến được tới đầu kinh, nhưng dầu có tiến tới thì cũng vô ích. Người ta sẽ không để cho họ chiếm kinh, họ không còn là cường quốc nữa, mà khắp thế giới, ngay dân chúng họ nữa, kịch liệt mạt sát họ. Cho nên khi Liên hiệp quốc ra lệnh bắt Israel trở về biên giới cũ, bắt Anh, Pháp rút hết quân đội thì Anh, Pháp răm rắp tuân theo, Israel cự nự một chầu, Mỹ doạ cúp “viện trợ”, Ben-Gurion phải cúi đầu.
Đại diện của Israel ở Liên hiệp quốc đưa ra lý do: mấy năm nay các quốc gia Ả Rập không thi hành đúng hiệp ước đình chiến năm 1949, cứ khiếu khích hoài, Israel mấy lần yêu cầu Liên hiệp quốc can thiệp, Liên hiệp quốc không giải quyệt được gì cả, cho tới khi Israel thấy khí giới và quân lính Ả Rập tiến Sinai nhiều quá nguy cho Israel nên Israel phải đảm nhận lấy việc tự vệ. Họ còn nói thêm:
“Từ thượng cổ tới giờ, từ chiến tranh Péloponese, quốc gia nào bị khiêu khích cũng phải phản ứng lại như chúng tôi đã phản ứng, và nhiều khi bằng những phương pháp cương quyết hơn chúng tôi nữa. Ngay như Hoa Kỳ năm 1916, cũng đem quân chính quy tiêu diệt bọn cướp Mễ Tây Cơ quấy phá biên giới Hoa Kỳ kia mà.
Giải thích gì thì giải thích, không ai chấp nhận được luận điệu của họ và rốt cuộc Liên hiệp quốc đã buộc họ phải rút quân về biên giới.
Ben-Gourion khen Nasser thông minh cũng phải: Nasser chỉ khiêu khích để Israel phải ra tay trước mà lỗi về cả Do Thái. Lỗi về Ben-Gourion đã tính sai một nước cờ, ông đã làm cho khối trung lập, khối Á Phi mất hẳn cảm tình với quốc gia ông. Mấy năm sau Bộ Ngoại giao Israel sai sứ giả đi thăm các nước châu Á để xin thắt chặt lại tình giao hảo; Nehru làm thinh và đứng về phe các quốc gia Ả Rập. Duy có Miến Điện là tỏ chút lòng thông cảm, năm 1959 mời Tổng thống Ben-Zvi qua chơi. Tất cả các quốc gia Ả Rập đều thêm căm thù Israel, và sự xung đột càng gay gắt hơn nữa, chủ trương thống nhất các quốc gia Ả Rập càng thêm vững vàng. Danh của Nasser vang khắp thế giới. Mọi nước gởi lời chức tụng. Các dân tộc Ả Rập coi ông là một vị danh hùng rửa nhục cho họ, thắng được cả Anh, Pháp. Ở Ả Rập Séoudite Syrie, Jordanie đâu đâu cũng thấy hình ảnh Nasser.
Anh mất hết cảm tình của dân Ả Rập, bị Mỹ hất cẳng ở bán đảo Ả Rập. Pháp bị thiệt hại rất nặng: bao nhiêu công trình kinh doanh và xây dựng văn hoá ở Ai Cập trong một thế kỷ rưỡi, nhất đán sụp đổ hết, không còn vớt vát được chút gì cả.
Ngay các công ty Ý, Thuỵ Sĩ, Hy Lạp cũng bị hại lây: họ bắt buộc phải dùng nhân viên Ai Cập trong mọi nhiệm vụ và lần lượt các xí nghiệp ngoại quốc đều bị quốc hữu hoá hết. Nhưng ảnh hưởng lớn nhất là địa vị của Nga ở bán đảo Ả Rập hoá ra quan trọng, mấy chục triệu dân Ả Rập bỗng có cảm tình với Nga. Bán đảo Ả Rập sau thế chiến thứ nhất bị Anh thao túng, quyền lợi của Pháp ở đó kém xa của Anh, Mỹ không có gì, Nga chưa mon men tới được.
Cuối thế chiến thứ nhì, tổng thống Roosevelt o bế được quốc vương Ả Rập Séoudite là Ibn Séoud Arabia và Mỹ được quyền khai thác nhiều giếng dầu rất phong phú, bắt đầu hất chân được Anh, muốn thay thế Anh ở Ai Cập nhưng vì vụng xử, làm Nasser nổi quạu, và Nasser quay về phía Nga.
Nga đã từ lâu muốn mở rộng phạm vi tới bán đảo Ả Rập không phải vì ham các giếng dầu (Nga có dư dầu lửa để dùng rồi) mà vì muốn thu phục chư hầu mà bao vây Tây Âu, tranh giành ảnh hưởng với Mỹ. Nhờ một chính sách khôn khéo, ngược hẳn với chính sách Mỹ - Kremlin dùng kinh tế của Nga để phục vụ chính trị, chứ không như Bạch Cung dùng chính trị để phục vụ kình tế của mình. Nga đã thắng Mỹ một keo rực rỡ năm 1956.
Mỹ vội vàng tìm cách gỡ. Tổng thống Eisenhower, ngày 5-1-1957 liền họp Quốc hội để trình bày một chính sách mới mà người ta gọi là “chủ nghĩa Eisenhower”.
Ông tuyên bố rằng không thế nào để cho các Thánh địa Tây Á ở dưới quyền một cường quốc chủ trương thuyết duy vật vô thần được. Vậy ông xin quốc dân cho ông cái quyền được giúp đỡ các nước Tây Á giữ được sự độc lập của họ, quyền đưa quân đội Hoa Kỳ tới các nước đó để bảo vệ họ nếu họ ngỏ lời xin Mỹ giúp. Muốn cho sự can thiệp của Mỹ được mau chóng, ông xin được toàn quyền sử dụng một ngân quỹ riêng cho tới số tiền 200 triệu Mỹ kim mà khỏi hỏi ý kiến lưỡng viện.
Đề nghị của ông được chấp thuận và sự can thiệp của Mỹ vào bán đảo Ả Rập từ đây hoá ra mau lẹ, trực tiếp. Eisenhower mời quốc vương Ả Rập Séroudite, tức vua Saud qua Washington, tiếp đãi rất niềm nở, y như Tổng thống Roosevelt đã tiếp đãi vua Ibn Séoud, thân phụ của Saud. Eisenhower tặng Saud 250 triệu Mỹ kim, một số khí giới và để đáp lại, Saud để cho Mỹ sử dụng phi trường Dahran thêm năm năm nữa, và hứa về Tây Á sẽ thuyết phục các quốc trưởng Ả Rập khác đứng về phe Mỹ.
Về tới Le Caire, ông ta trình bày «chủ nghĩa Eisenhower» cho Nassel, Choukly Kouatly và Hussein nghe.
Nasser mỉm cười bảo:
- Chủ nghĩa của Eisenhower có điểm sai, ông ta bảo Pháp Anh rút rồi, có một “khoảng trống” ở Tây Á. Làm gì cho khoảng trống, mà giả sử có chăng nữa thì nhiệm vụ lấp khoảng trống đó thuộc chúng mình chứ?
Choukry Kouatly tiếp lời:
- Chính quyền Syrie đã có thái độ dứt khoát về vấn đề đó rồi: không để cho một cường quốc nào can thiệp vào việc nội bộ của chúng ta.
Hussein, quốc vương Jordanie, rụt è đưa ý kiến:
- Đề nghị của Mỹ có lợi là bảo đảm cho chúng mình khỏi bị cộng sản quốc tế hiếp đáp.
Nasser đáp:
- Nga chưa bao giờ tấn công mình cả. Giá chủ nghĩa Eisenhower bảo đảm cho mình khỏi bị mọi cuộc tấn công bất kỳ từ đâu thì là chuyện khác. Nếu Anh, Pháp, hoặc Israel lại tấn công mình nữa thì Mỹ sẽ làm gì? Không thấy chủ nghĩa Eisenhower nói gì về điểm đó?
Choukry Louatly nói thêm:
- Nga có tấn công nước nào ở bán đảo, này thì nước đó chỉ có thể là Israel. Vậy theo chủ nghĩa Eisenhower lúc đó mình sẽ bênh vực Israel à?
Saud không thuyết phục được Ai Cập và Syrie.
Hai nước này, tháng 2 năm 1958, liên kết với nhau chặt chẽ hơn nữa, thành lập nước Cùng hoà Ả Rập thống nhất: Nasser làm tổng thống, cựu thủ tướng Syrie là Sabri El Assali làm phó tổng thống. Yemen, Ả Rập Séoudite có cảm tình với Nasser và Nasser hy vọng sau sẽ liên kết thêm được Jordanie, Soudan, Iraq, có lẽ cả ba xứ Tunisie, Algérie, Maroc ở Bắc Phi nữa.
Nhưng chính sách đô-la của Mỹ cũng lợi hại lắm: dần dần, Jordanie chống ông, Syrie cũng ly khai, Ả Rập Séoudite và Yemen lơ là: có lẽ một phần cũng vì ông vụng về.
Lúc đó tình hình ở bán đảo Ả Rập như sau:
Ảnh hưởng của Nga ngừng lại, ảnh hưởng của Mỹ vẫn mạnh. Nga bênh vực Ai Cập, Mỹ bênh vực Israel một cách kín đáo vì vẫn phải lấy lòng các quốc gia khác: Jordanie, Ả Rập Séoudite, Iraq, Liban. Khối Ả Rập vẫn chia rẽ, mặc dầu họ vẫn không quên mối thù chung là Israel, và Nasser vẫn phải nhắc nhở hoài các dân tộc Ả Rập: “Cuộc chiến đấu của chúng ta chưa chấm dứt, chúng ta có cả một quãng đường dài nữa. Phải lánh xa những kẻ nào chia rẽ chúng ta, vì độc lập mà không đưa tới sự đoàn kết thì thứ độc lập đó không đáng kể gì cả”.
Tóm lại chiến tranh 1956 không giải quyết được vấn đề Ả Rập - Israel; chỉ làm cho nó thêm rắc rối và từ nay nó trở thành một vấn đề quốc tế, có Nga Mỹ xen vô. Ít năm sau thêm cả Trung Cộng nữa vì Mao Trạch Đông vẫn muốn lãnh đạo phong trào cách mạng của các nước nhược tiểu Á-Phi, tranh giành ảnh hưởng với Nga Sô, cũng giúp đỡ Ai Cập khí giới, huấn luyện các đội quân phục kích, phá hoại cho Ai Cập.
Vậy sau bốn nguyên nhân xung đột đã kể ở đầu chương, chúng ta có thể thêm nguyên nhân này nữa: sự tranh giành ảnh hưởng của các cường quốc.
Lịch sử Bài học Israel
Chương IX CHIẾN TRANH THỨ BA NĂM 1967 GIỮA ISRAEL VÀ AI CẬP
Tình hình phía Ả Rập. Lịch sử chính trị của bán đảo Ả Rập từ thế chiến thứ nhất, đặc biệt là trong hai chục năm gần đây rối như bòng bong: Các cường quốc tuôn tiền bạc, khí giới vào, ngầm đưa mật vụ vào - bọn này cải trang thành các kỹ sư,con buôn, các nhà khảo cổ tu hành… mua chuộc nhóm này nhóm khác, gây không biết bao nhiêu âm mưu xuất quỉ nhập thần, không biết bao nhiêu cuộc ám sát, đảo chánh, không phải là nhà chính trị chuyên môn về vấn đề Ả Rập thì không sao theo dõi cho kịp để dò được manh mối. Dân chúng Ả Rập đa số thiếu học, dễ tin, cuồng nhiệt, còn nhà cầm quyền thì đa số có tham vọng, thiếu kinh nghiệm mà lại dư thủ đoạn, độc đoán, tàn nhẫn, cho nên bán đảo đó là một đất lý tưởng cho các chính khách phương Tây tranh tài.
Như chương trên tôi đã nói, năm 1958, uy thế của Nasser bắt đầu xuống: mặt trận Ả Rập thống nhất của ông gồm có Ai Cập và Syrie; Iraq và Jordanie thành lập một liên minh Ả Rập để chống lại. Tức thì xảy ra không biết bao nhiêu cuộc xáo trộn kinh khủng: nổi loạn xảy ra ở Liban giữa phe thân Nasser và phe thân Tây phương. Rồi quốc vương Iraq là Faycal bị hạ sát ở Bagdad hôm trước thì hôm sau, vị thủ tướng của ông là Noury Said, thân Tây phương cũng bị giết. Liban cầu cứu với Mỹ và Mỹ cho thả lính nhảy dù xuống Amman, kinh đô Jordanie.
Khrushchev liền can thiệp, hội đàm với Eisenhower, và thủ tướng Liban phải từ chức, tình hình bớt căng thẳng. Nhưng Yemen lại lộn xộn vì Ả Rập Séoudite (ta nên hiểu là Washington và London) tranh giành ảnh hưởng với Ai Cập (hiểu là Moscow). Yemen là xứ quá nhỏ, nên các cường quốc chỉ ủng hộ ngầm tiểu đồng minh của mình thôi, không đến nỗi xích mích quan trọng. Trong khi các quốc gia Ả Rập mải nói chuyện với nhau,: Israel lo kiến thiết, củng cố lực lượng, thừa cơ tháo nước sông Jourdain để dẫn vào các miền khô cháy của họ. Ả Rập phản kháng, doạ dẫm cũng vô hiệu.
Các vụ xung đột ở biên giới xảy ra như cơm bữa và lần nào quân đội Israel cũng “ra tay” một cách cương quyết:
Năm 1964, khối Ả Rập rất chia rẽ về vấn đề Israel: Tunisie ôn hoà nhất, muốn dùng chính sách ngoại giao: Syrie kịch liệt nhất, chỉ đòi dùng võ lực; Ai Cập trung dung đề nghị cứ tạm giữ hiện trạng mà chuẩn bị chiến tranh cho kỹ đã. Để hoá giải hai chủ trương kia, Nasser thành lập một cơ quan giải phóng Palestine mà người cầm đầu là Ahmed Choukeiri: Cơ quan có mục đích quấy rối các miền có dân tản cư Ả Rập tức ở Gaza (400.000 dân tản cư trên một thẻo đất nhỏ độ 300 cây số vuông) và Jordanie, trên một biên giới đài 350 cây số. Cơ quan đóng bản dinh ở Jérusalem, có rất nhiều tiền vì hầu hết các quốc gia Ả Rập đều phải đóng góp một thứ thuế gọi là “thuế hồi hương”, nhờ vậy chỉ trong hai năm thành lập được một đạo quân 16.000 người được Trung Cộng huấn luyện và cung cấp khí giới.
Choukeiri có hồi qua thăm Bắc Kinh, được Chu Ân Lai tiếp đón niềm nở, coi như một lãnh tụ Ả Rập nên về Jérusalem ông ta hăng say, đòi mở cuộc thánh chiến, diệt Israel và tuyên bố “sẽ sẵn sàng bắn phát súng đầu tiên”. Nasser thấy Choukeiri đi quá trớn, vội vàng cải chính, nhưng đã quá trễ.
Tình hình vì vậy mà cực kỳ căng thẳng. Cuối năm 1966, một xe vận tải Israel trúng mìn tại biên giới Jordanie, hôm sau, Israel trả đũa, phá tan một đồn cảnh sát Jordanie, hạ được một phi cơ Jordanie, kết quả: phía Jordanie có 18 người chết và 134 người bị thương.
Nửa tháng sau hai phi cơ MiG-19 của Ai Cập bị hạ ở gần Beerotayim (Israel); Nasser không phản ứng nhưng tố cáo chính quyền Ả Rập Séoudite và Jordanie là nhu nhược.
Kế đó, đạo quân Choukeiri quấy phá biên giới Israel ở phía Syrie; Israel tấn công, hạ 6 phi cơ MiG-21 của Syrie. Syrie uất ức đòi Nasser phải giữ điều ước liên minh quân sự mà giúp đỡ mình.
Ở phía Liban, quân Choukeiri cũng bắn súng cối qua một kibboutz của Israel.
Ở phía Liban, quân Choukeiri cũng bắn súng cối qua một kibboutz của Israel.
Qua tháng 5 năm 1967, hai bên Israel và Ai Cập đều chuẩn bị chiến tranh.
Sau chiến tranh 1956, do yêu cầu của Ai Cập, Liên hiệp quốc phái 400 quân mũ xanh đóng ở Sinai và Gaza để ngăn các cuộc gây hấn của Israel. Trong hiệp ước có nói rõ rằng nếu một trong hai bên (Ai Cập hoặc Israel) phản đối thì đội quân đó sẽ rút ra. Năm 1967, Nasser dựa vào điều khoản đó đòi họ rút đi, thâm ý là muốn khiêu khích Israel để gây chiến. Tổng thư ký Liên hiệp quốc là U Thant có lẽ hiểu nguy cơ đó, nhưng đành phải giữ đúng hiệp ước. Người ta trách ông quyết định vội vàng, không hỏi ý kiến Hội đồng bảo an. Quân mũ xanh đi, quân đội Ai Cập tới thay thế.
Nassel lại muốn phong toả eo biển Tiran, trong vịnh Akaba, ngăn các tàu Israel tới Elath, cửa ngõ của Israel trên Hồng Hải. Từ mười năm qua kinh Suez bị cấm, Liên hiệp quốc bảo đảm cho Israel dùng hải cảng đó để giao thông với phương Đông. Dầu lửa chở tới Elath, đưa lên xe tải rồi do con đường xa lộ rất tốt Beetcheva người ta gọi con đường này là “kinh Suez cạn của Israel” mà vận chuyển lên Haifa, bị chặn ở phía đó, Israel như bị cắt mất một lá phổi.
Thế là chiến tranh không thể tránh được.
Ngày 20-5-1967, bốn ngàn giáo đường Ai Cập gọi tín đồ dự cuộc Thánh chiến. Ở Gaza, 12.000 quân Choukeiri và một số Fedayin (cảm tử quân), tiến lại sát biên giới Israel. Sứ thần Trung Cộng tới thăm Choukeiri. Ngày 23-5-1967, Nasser tuyên bố phong toả vịnh Akaba.
Ở Washington, Johnson lên tiếng cảnh cáo rằng Ai Cập làm cho tình hình ở Tây Á nguy hiếm và phải chịu trách nhiệm. Tức thì Moscow đáp lại: “Kẻ nào dám xâm lăng Tây Á sẽ đụng phải lực lượng của liên minh Ả Rập và sự kháng cự của Nga Sô”.
Được Nga làm hậu thuẫn, Nasser hoàn toàn vững bụng. Jordanie vốn thân Tây phương, Nasser đưa người vào, quấy rối, tính lật đổ ngai vàng của Hussein. Xứ đó nhỏ và nghèo, chỉ có một triệu rưỡi dân mà nửa triệu là những người Ả Rập Palestine tản cư qua “lúc nào cũng chỉ ngong ngóng có thánh chiến” để hồi hương, cho nên trong nước không bao giờ yên, ngai vàng lúc nào cũng lung lay. Husseìn phải đối phó với ba cuộc đảo chính, dẹp hai cuộc cách mạng, nhờ can đảm và lanh trí mà mười lần thoát chết (2). Ông vua trẻ đó, hồi lên ngôi mới mười bảy tuổi, đáng là dòng dõi Mohamed, ông viết một cuốn sách nhan đề “Làm vua khó thay” (Il est difficile d’e6tre roi – Buchet Chastel – Paris – 1962), trong đó ông tâm sự bằng một giọng thành thực và cảm động.
Từ khi Choukeri lập bản doanh ở Jérusalem, Hussein uất ức vì bị Choukeiri lấn át, nhưng ông không dám phản đối. Bây giờ Nasser đưa quân vô nói là để bảo vệ Jordanie, Hussein biết rằng tính mạng mình lâm nguy, đành phải nuốt hận, thân hành qua Le Caire ký một hiệp ước liên minh, đứng về phe Ả Rập thống nhất.
Vậy là Nasser đã vừa ngoại giao, vừa dọa dẫm, thực hiện được sự thống nhất của khốì Ả Rập. Đầu tháng sáu 1967 hiện có tới mười hai quốc gia Ả Rập đứng sau lưng Ai Cập, tám quốc gia sẵn sàng gởi quân đội qua khi có chiến tranh với Israel: Algérie, Maroc, Kuwait, Yemen, Iraq, Soudan, Jordanie, Syrie; bốn quốc gia kia: Ả Rập Saudi, Tunisie, Lybie, Liban chỉ tỏ tinh thần đoàn kết về chính trị thôi. Ngoài ra hai xứ Hồi giáo nhưng không phải là Ả Rập: Thổ Nhĩ Kỳ và Pakistan ở xa ủng hộ về tinh thần. “Chúng tôi hết thảy đứng về phía Nasser”.
Nasser thấy chưa bao giờ tình hình thuận tiện như vậy
- Về phương diện ngoại giao, Israel có Mỹ và Anh làm hậu thuẫn, nhưng Ả Rập có Nga và Tiệp Khắc. Pháp cung cấp phi cơ Mirage cho Israel nhưng ngày 2-6-1967, tổng thống De Gaulle tuyên bố trung lập và bảo rằng nước nào nổ súng đầu tiên sẽ không được Pháp tán thành, chứ đừng nói là ủng hộ. Vậy là hậu thuẫn hai bên ngang nhau.
- Về phương diện dân số, Ả Rập gồm bảy chục triệu, Israel chỉ có hai triệu rưởi.
- Về phương diện quân số: Ai Cập có 270.000 quân đã tập trung ở bán đảo Sinai 100.000 quân; Syrie đã tập trung ở biên giới bắc Israel 60.000 quân; Jordanie cũng có 60.000 quân do một tướng Ai Cập chỉ huy; Liban cũng có một đạo quân nhỏ; Iraq, Algérie, Kuwait đã gởi những đoàn quân tượng trưng qua. Quân hậu bị của các nước này còn rất nhiều. Vậu quân số nhất định là hơn Israel. Sĩ tốt Ai Cập lại được Nga và Trung Cộng huấn luyện kỹ càng.
- Về vũ khí, trong mười năm nay, Nga, Tiệp Khắc đã cung cấp cho Ai Cập năm trăm phi cơ MiG-17, MiG-19, trực thăng… 1.300 chiếc xe thiết giáp, 175 dàn hoả tiễn, 12 tiềm thủy đỉnh, 7 khu trục hạm. Syrie và Iraq cũng có khoảng 206 phi cơ, 700 xe thiết giáp…
Vậy Nasser tin phần thắng tất về Ả Rập, và đài phát thanh Le Caire không ngớt tuyên bố:
“Hai gọng kìm Egypte và Syrie đã xiết chặt vào cổ Israel”
“Tám họng súng Ả Rập đã chĩa vào Israel”.
“Quân đội chúng ta sẵn sàng giải phóng Tel Aviv”
“Chiến tranh lần này sẽ là chiến tranh toàn điện và mục tiêu của chúng ta là diệt Israel”.
Nhưng lần này Nasser đã tính sai hai nước cờ:
Sự đoàn kết của các quốc gia Ả Rập chỉ có bề ngoài; sau mười chín năm, từ chiến tranh đầu tiên với Israel năm 1948, sự thống nhất hoạt động binh bị vẫn chưa thực hiện được ở phía Ả Rập, tinh thần chiến đấu của các quốc gia không đều nhau, có những đội quân miễn cưõng ra trận.
Nasser tưởng như thế nào Nga cũng can thiệp, nhưng lạ lùng thay, Nga không can thiệp, đứng ngoài ngó Israel đánh quị các lực lượng Ai Cập rồi quay trở lại hạ nốt lực lượng Jordanie, Syrie. Mãi đến phút chót, khi khắp thế giới thấy Israel đã toàn thắng, Nga mới lên tiếng hão. Thành thử Mỹ có hạm đội thứ sáu ở Địa Trung Hải cũng chẳng cần phải can thiệp. Hai đế quốc anh chị đã thoả thuận ngầm với nhau rằng phen này để mặc bọn đàn em đọ sức, mình không nên xen vào. Điều lạ lùng nhất là thái độ không can thiệp đó của Nga, Nasser không đoán ra mà Israel lại biết chắc từ trước, ông Louis Garros trong bài báo đã dẫn bảo rằng “tất cả chính sách của Israel đã dựng trên sự tin chắc đó: Nga sẽ không can thiệp”.
Nasser tưởng như thế nào Nga cũng can thiệp, nhưng lạ lùng thay, Nga không can thiệp, đứng ngoài ngó Israel đánh quị các lực lượng Ai Cập rồi quay trở lại hạ nốt lực lượng Jordanie, Syrie. Mãi đến phút chót, khi khắp thế giới thấy Israel đã toàn thắng, Nga mới lên tiếng hão. Thành thử Mỹ có hạm đội thứ sáu ở Địa Trung Hải cũng chẳng cần phải can thiệp. Hai đế quốc anh chị đã thoả thuận ngầm với nhau rằng phen này để mặc bọn đàn em đọ sức, mình không nên xen vào. Điều lạ lùng nhất là thái độ không can thiệp đó của Nga, Nasser không đoán ra mà Israel lại biết chắc từ trước, ông Louis Garros trong bài báo đã dẫn bảo rằng “tất cả chính sách của Israel đã dựng trên sự tin chắc đó: Nga sẽ không can thiệp”.
Kết quả là Israel còn thắng lợi to hơn lần trước, làm cho cả thế giới ngạc nhiên một lần nữa.
Lần trước họ chiến đấu chung với Anh-Pháp, lần này họ chiến đấu một mình; lần trước họ chỉ tấn công Ai Cập, lần này họ chiến đấu trên ba mặt trận: Ai Cập, Jordanie, Syrie; lần trước họ mất một trăm giờ để vượt bán đảo Sinai, lần này họ chỉ mất có tám mươi bốn giờ, thực ra sau ba giờ đầu tiên của chiến dịch (ngày 5-6-1967), cán cân lực lượng đã chúc hẳn về phía họ, vì họ đã diệt được gần hết lực lượng không quân của Ai Cập, hoàn toàn làm chủ không phận trên chiến trường, rồi mấy ngày sau đánh tan lực lượng liên minh Ả Rập.
Thật là một kỳ công.
Danh tiếng của độc long tướng quân Moshe Dayan (lần này làm Bộ trưởng quốc phòng) lại càng vang lừng, thậm chí một nghị sĩ Mỹ đã nói đùa rằng phải mời ông qua điều khiển các cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nghe đâu như mấy năm trước đã có lần vi hành qua nước ta, thăm các mặt trận, nhưng chắc ông không rút được nhiều kinh nghiệm mà người Mỹ cũng chẳng học gì được nhiều của ông vì chiến tranh ở hai nơi tính cách khác nhau, nên chiến thuật phải khác nhau, phương pháp tấn công chớp nhoáng của ông trên sa mạc, làm sao có thể áp dụng được ở rừng núi và đồng ruộng Việt Nam.
Thật là một kỳ công.
Danh tiếng của độc long tướng quân Moshe Dayan (lần này làm Bộ trưởng quốc phòng) lại càng vang lừng, thậm chí một nghị sĩ Mỹ đã nói đùa rằng phải mời ông qua điều khiển các cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nghe đâu như mấy năm trước đã có lần vi hành qua nước ta, thăm các mặt trận, nhưng chắc ông không rút được nhiều kinh nghiệm mà người Mỹ cũng chẳng học gì được nhiều của ông vì chiến tranh ở hai nơi tính cách khác nhau, nên chiến thuật phải khác nhau, phương pháp tấn công chớp nhoáng của ông trên sa mạc, làm sao có thể áp dụng được ở rừng núi và đồng ruộng Việt Nam.
Phía Israel. Những tài liệu trên về lực lượng của khối Ai Cập chúng tôi rút trong cuốn “La guerre de six jours” của Samuel Seguev (Calman Levy 1967), một ký giả Do Thái đã tham dự chiến tranh 1956 và theo dõi chiến tranh 1967. Về phía Israel, chúng tôi biết đại lược rằng quân số vào khoảng từ 250.000 tới 300.000 người.
Đêm 23-5-1967, khi Ai Cập phong tỏa eo biển Tiran ở cửa vịnh Akaba, ông Lévi Eshkol, thủ tướng kiêm Bộ trưởng quốc phòng (3) của Israel liền họp nội các hồi 4 giờ sáng để quyết định thái độ. Toàn thể nội các đồng ý rằng phải phản ứng liền, nhưng đa số còn do dự chưa muốn dùng võ lực, hãy dùng đường lối ngoại giao đã. Eshkol yêu cầu các quốc gia có hải quân và thương thuyền ở phương Tây giải quyết vấn đề quốc tế đó, rồi phái sứ giả là Abba Eban qua Pháp, Anh.
De Gaulle khuyên: “Israel đừng nên gây chiến. Nên để vấn đề đó cho tứ cường (tức Mỹ, Nga, Anh, Pháp) giải quyết”
Wilson bảo Anh sẽ hành động theo Mỹ. Còn Mỹ đương mắc kẹt ở Việt Nam, cũng không muốn gây rối thêm ở Tây Á, nhưng hứa sẽ ủng hộ Israel. Johnson sẽ dùng chính sách này để đối phó với Ai Cập: cùng với vài quốc gia có hải quân và thương thuyền sẽ xông bừa vào vịnh Akaba, phá sự phong tỏa và đoàn tàu của Israel sẽ theo vô. Ông bảo Anh, Canada và Hòa Lan đã đồng ý với Mỹ về điểm đó.
Mỹ còn cho Israel hay rằng về quân sự, Israel mạnh hơn, có chiến tranh thì Israel chắc chắn thắng.
Trong khi Eban qua Anh, Pháp thì Bộ trưởng quốc phòng Ai Cập là Mohamed Chams El din Badiane qua Moscow, và Moscow long trọng tuyên bố trong một bữa tiệc: “Nga sẽ giữ tình thân nghị với Ai Cập, sẽ tiếp tục giúp đỡ Ai Cập. Một tục ngữ Ả Rập bảo: “Gặp lúc khó khăn mới biết được bạn trung thành” Chúng tôi đã có dịp chúng tỏ rằng câu đó đúng”. Cuối tháng 5-1967, thủ tướng Syrie cũng bay qua Moscow và cũng được Moscow hứa sẽ giúp đỡ về chính trị và quân sự. Hơn nữa, Moscow còn tăng cường hạm đội Nga ở Địa Trung Hải, nhất định chặn mọi sự can thiệp của Mỹ hoặc Anh
Rồi theo Samuel Seguev trong sách đã dẫn thì trong mấy ngày chiến tranh, đường liên lạc đỏ (4) giữa Moscow và Washington hoạt động liên tiếp: ở cả hai đầu người ta cùng thề với nhau tìm đủ mọi cách tránh mọi cuộc đụng đầu giữa hai cường quốc để cho Tây Á khỏi chìm trong khói lửa”.
Kết luận: Mỹ đã ngầm xúi Israel gây chiến, Nga đã ra mặt xúi Ai Cập và Syrie gây chiến: Mỹ, Anh cung cấp khí giới cho Israel; Nga, Tiệp cung cấp khí giới cho Ả Rập, tha hồ, muốn bao nhiêu cũng được nhưng Mỹ, Nga đã thoả thuận với nhau rồi: sống chung hoà bình, không vì bán đảo Ả Rập mà đọ sức với nhau, cứ đứng ngoài ngó hai con gà nòi đá nhau. Vì có lẽ cả Nga lẫn Mỹ đều tin rằng gà của mình là gà nòi cứng cựa, chắc ăn gà của đối phương.
Nasser cũng tin chắc rằng mình sẽ thắng. Eshkol hình như hơi do dự, bị đa số đảng phái (Israel có tới 11 đảng chính trị) cho là ôn hoà quá, dùng chính sách ngoại giao thì biết bao giờ giải quyết cho xong, mà nước đã đến chân rồi. Dân chúng Israel có vẻ ngờ sự đắc lực của nội các Eshkol, mong đoàn kết dân tộc để cho chính quyền mạnh hơn nên đề nghị thay đổi thành phần nội các, đưa hai vị anh hùng Ben-Gurion và Moshe Dayan lên cầm quyền. Trong mấy năm, nay Eshkol vẫn thù nghịch Ben-Gurion về chính kiến, nên bất bình không chịu. Ménahem Béguin được các đảng phái cử lên thuyết phục Eshkol:
- Thưa Thủ tướng, tôi biết rằng giữa ngài và ông Ben-Gurion có những sự xích mích nghiêm trọng nhưng xin ngài nhớ giữa ông ấy và tôi cũng vậy. Về phần tôi, tôi sẵn sàng quên mọi chuyện cũ để chúng ta đoàn kết với nhau trước kẻ thù chung.
Eshkol đáp:
- Ông Béguin ạ, hai con ngựa Ben-Gurion và tôi làm sao cùng kéo một chiếc xe được. Hoặc là ông ấy, hoặc là tôi.
Sau đó có người đưa ra giải pháp: tách rời chức vụ thủ tướng và Bộ trưởng quốc phòng ra.
Eshkol, vẫn giữ chức thủ tướng, nhưng ghế Quốc phòng sẽ giáo cho Moshé Dayan. Eshkol cũng lại cự nự nữa vì Moshe Dayan thân với Ben-Gurion, ông ta bảo: Mới hôm 24-5, nội các đồng ý với tôi là phải ôn hoà mà sao hây giờ lại bắt tôi chấp nhận Moshe Dayan. Mãi tới khi thấy gần như toàn thể nội các bỏ rơi mình, nhất là khi dân chúng to nhỏ với nhau. Nasser và Hussein thù nhau mà còn hoà giải với nhau kia, tại sao các nhân vật cầm quyền của mình không chịu quên những xích mích cũ của nhau đi, Eshkol mới chịu nhượng một chút, để Moshe Dayan làm phó thủ tướng, Bộ trưởng quốc phòng giao cho Ygal Allon người trong phe của ông ta.
Moshé Dayan không chịu “ngồi chơi xơi nước”, muốn làm cái gì thì làm cho ra trò kia, nếu không làm Bộ trưởng quốc phòng thì sẽ làm tư lệnh đạo quân phương Nam, ở dưới quyền tướng Isaac Rabin, Tổng tham mưu trưởng, học trò của ông.
Mãi tới ngày mồng một tháng sáu, dân chúng nhao nhao lên, biểu tình đòi Moshé Dayan trở về bộ quốc phòng, thì Lehkol mới nhượng bộ, toàn thể nội các hoan hô độc long tướng quân, toàn thể quân đội thở ra nhẹ nhàng, ăn mừng, ca hát, nhảy múa. Họ có được một vị lãnh đạo mà họ ngưỡng mộ và tin tưởng hoàn toàn. Lòng ái, quốc, lòng hy sinh, tinh thần trách nhiệm hiện trên mặt mọi người.
Họ đoàn kết với nhau lạ lùng vì lẽ sống còn của họ, người ta tự nguyện đầu quân: Lệnh động viên ban ra: dân chúng nhập ngũ đủ -100%; ở các binh chủng nhảy dù, và thiết giáp con số lên tới 130%, vì có nhiều người chưa bị gọi mà cũng tình nguyện đầu quân. Không có một lá thư xin phép trong suốt chiến dịch, dù nhà có tang, hay có người cưới hỏi. Phụ nữ dưới 55 tuổi và trẻ em trên 12 tuổi đều được giao phó trách nhiệm. Các nhân viên, đã hồi hưu đều trở lại làm nhiệm vụ cũ để thay thế những người ra mặt trận.
Còn trong quân đội Ai Cập thì trái hẳn, tất cả các địch vụ hành chính đều do các quân nhân nắm giữ và khi cơ cấu, bị rối loạn thì vô phương cứu vãn.
Học sinh trung học Israel đua nhau đào hầm, đổ cát vào bao, dựng các chướng ngại vật, đưa thư. Những người trên 50 nếu không vào tổ chức phòng vệ dân sự hoặc địa phương quân thì giúp đỡ tùy khả năng của mình; người nào biết lái xe thì đi xe - có khi là chính xe của họ - để chở hành khách không lấy tiền. Mọi phương tiện chuyên chở được dùng vào vận tải vũ khí, quân nhu trước hết. Tóm lại là toàn dân được huy động như một tổ ong bị địch vào phá rối mà, cùng hoá ra ong chiến đấu hết.
Bức thang giá trị ở Israel do đó mà thay đổi hết. Bao nhiêu sự cách biệt trong thời bình nhất đán mất hết, ông kỹ sư quên nghề nghiệp, công việc của mình đi, tuân lệnh một thanh niên mà chăm chú nghe cậu chỉ cho cách sử dụng liên thanh. Chú lính liên lạc được các, ông lớn bà lớn săn sóc. Mọi người đứng nối đuôi nhau hiến máu. Hàng ngày người Do Thái ở khắp các nơi trên thế giới xuống phi trường Lydda để tình nguyện nhập ngũ, có sinh viên ở Pháp, kỹ sư ở Anh, nhà buôn ở Hoa Kỳ, nông gia ở Hòa Lan, giáo viên ở Nam Mỹ, bỏ gia đình, công ăn việc làm, về để cứu quốc.
***
Lúc nào cũng sẵn sang. Moshé Dayan lên giữ bộ Quốc phòng, để tỏ ý chí chiến đấu và đoàn kết lòng dân, chứ không thay đổi chiến lược hay chiến thuật. Mọi việc đã chuẩn bị liên tục ngay sau chiến tranh 1956, từ sự đào tạo chiến sĩ mua sắm khí giới, tới việc xây đồn, luỹ, tổ chức tình báo… Mọi cơ quan, quân sự chạy trơn tru như chiếc máy ngày nào cũng được săn sóc kỹ lưỡng; cho nên mấy ngày đầu tháng sáu dân chúng có vẻ xáo động mà quân đội thì rất bình tĩnh.
Đáng khen nhất là cơ quan tình báo. Họ làm cách nào mà thu thập được mọi chi tiết về các đạo quân địch, kiểu phi cơ, phi trường, đường bay, sĩ quan nào chỉ huy, tính tình ra sao, chiến thuật ra sao, thói quen ra sao, giờ nào họ làm việc, giờ nào họ sao nhãng, chỗ nào cơ phi cơ thật, chỗ nào đặt phi cơ giả. Pháo binh bộ binh; thuỷ binh Ai Cập, họ cũng biết rõ từng tí. Nên Moshe Dayan đã phải khen rằng: “Bất kỳ một quân đội nào trên thế giới cũng phải tự hào có được cơ quan tình báo như vậy”.
Còn chiến thuật, thì Ben-Gurion và Moshé Dayan đã nghiên cứu từ mười mấy năm trước.
Khắp thế giới ngạc nhiên rằng hai chiến tranh Israel 1956 và 1967 đều chớp nhoáng mà chiến tranh sau còn chớp nhoáng hơn chiến tranh trước nữa. Nhưng nếu biết rằng sự thắng chớp nhoáng đó là cái lẽ sống còn của Israel thì chúng ta không lấy làm lạ nữa.
Còn chiến thuật, thì Ben-Gurion và Moshé Dayan đã nghiên cứu từ mười mấy năm trước.
Khắp thế giới ngạc nhiên rằng hai chiến tranh Israel 1956 và 1967 đều chớp nhoáng mà chiến tranh sau còn chớp nhoáng hơn chiến tranh trước nữa. Nhưng nếu biết rằng sự thắng chớp nhoáng đó là cái lẽ sống còn của Israel thì chúng ta không lấy làm lạ nữa.
Khi Ben-Gurion ra lệnh cho Moshé Dayan lập kế hoạch cho trận Sinai năm 1956, ông ta có dặn kỹ phải làm sao hoàn thành chiến dịch trong hạn từ sáu tới tám ngày vì quân đội Israel chỉ có thời gian đó để hoạt động thôi. Hồi ấy Israel âm mưu Anh Pháp chiếm kinh Suez, tạo nên một tình trạng đã rồi, để Liên hiệp quốc có can thiệp thì cũng trễ, Ben-Gurion tính trên đầu ngón tay, nói với Dayan:
Phải hai ngày Ai Cập mới hiểu việc gì đã xảy ra. Lúc đó Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc họp gấp và ra lịnh cho hai bên ngưng chiến. Nhưng chúng ta không ngưng chiến, cứ tiếp tục tiến binh. Hội đồng bảo an lại họp nữa, lần này làm dữ, doạ dẫm. Và sau cùng chúng ta phải tuân lệnh. Trước khi tuân lệnh, thì chúng ta phải chiếm được trọn bán đảo Sinai. Chiếm trọn bán đảo đó từ sáu tới tám ngày. Làm nổi không?
“Trong vài trường hợp, chỉ cần chiếm một phần đất đai hoặc vài yếu điểm chiến lược là có thế thắng trận được rồi. Trường hợp chiến dịch Sinai, thì phải phá sự phong toả vịnh Akaba, diệt hết các ổ đại bác ở cửa vịnh phía cực nam bán đảo: vì vậy mà phải chiếm trọn bán đảo. Nếu hết kỳ hạn từ sáu đến tám ngày mà chỉ chiếm được chín phần mười bán đảo thì cũng kể như là hoàn toàn thất bại vì vịnh vẫn còn bị phong toả.
Mà muốn chiếm Sinai trong một tuần thì điều cần nhất là sự hành quân phải tiến một hơi, nghĩa là phải dùng những “đạo quân độc lập”, mỗi đạo có một mục tiêu nhất định và tiến tới không nghĩ, làm cho quân Ai Cập không sao cản nổi. Vậy, muốn tiến theo ba đường chẳng hạn thì phải có ba đạo quân có đầy đủ phương tiện để đạt mục tiêu mà không đạo quân nào được trông cậy vào sự giúp đỡ, yểm trợ của đạo quân khác, cũng không trông cậy vào sự tiếp tế quân nhu hoặc tăng cường quân lực. Nghĩa là một khi phát động rồi thì cắm cổ nhào tới đích với bất cứ giá nào: Phải tới đích đúng kỳ hạn. Nếu giữa đường gặp một vị trí của địch mà vì một lẽ nào đó, không diệt trọn được, thì bỏ nó lai, đi vòng và cứ nhắm đích mà tiến. Khi đã chiếm được những vị tới ở cuối cùng chung quanh bán đảo rồi, có còn lại vài ổ kháng cự ở trong bán đảo cũng không sao.
Ngày 3 tháng 6 năm 1967 Moshé Dayan, trong hội đồng nội các trình bày chiến thuật đó: lần này cũng phải chiếm Sinai trong một thời hạn như trước, nhưng cần thay đổi phương pháp một chút để cho Ai Cập không kịp đề phòng.
Ông tính phải ít nhất 72 giờ mới hạ được quân đội Ai Cập. Muốn vậy, trước hết ta phải diệt được không lực của Ai Cập để làm chù được không phận trên chiến trường. Điểm này không có gì lạ, chính Ai Cập cũng nghĩ vậy, chiến tranh trên sa mạc thì không quân đóng vai trò quan trọng nhất. Israel mua được nhiều phi cơ Mirage của Pháp, kiểu mới nhất, bay được 2.000 cây số một giờ, có hoả tiễn không-không, có bộ phận radar rất tinh xảo, tiến bộ. Một phần nhờ những phi cơ đó mà Israel thắng Ai Cập.
Lịch sử Bài học Israel
Chương IX (B) CHIẾN TRANH THỨ BA NĂM 1967 GIỮA ISRAEL VÀ AI CẬP
Trận Sinai. 8 giờ sáng, ngày thứ hai mồng 5 tháng 6-1967, bao nhiêu phi cơ của Israel đều nhất loạt túa lên trời, bay về biên giới Ai Cập. Và chỉ trong tám mươi phút, họ phá được gần hết các phi cơ khu trục, phóng pháo, vận tải của Ai Cập. Các phi trường ở Sinai: El Arich, Djebel Libni, Lir Gafagfa, Bir Tamda và đa số các phi trường ở bờ phía tây kênh Suez bị phá huỷ toàn toàn, không dùng được nữa, cũng không còn một chiếc phi cơ nào có thể cất cánh được nữa. Ba đoàn phi cơ Israel cất cánh cách nhau mười chín phít, bay rất thấp, len qua được những “lỗ hổng” của hệ thống radar Ai Cập rồi liên tiếp nã xuống mọi phi trường Ai Cập thành ba đợt: đợt đầu bằng bom, đợt nhì bằng rocket, đợt ba bằng liên thanh.
Họ đã tính trước: phải mất một giờ, nhà cầm quyền Ai Cập mới biết được việc gì đã xảy ra. Phải mất thêm một giờ nữa. Syrie, Iraq, Jordanie mới được Ai Cập cho biết tin tức. Họ lại mất tuột thòi gian để quân đội chuẩn bị xuất phát nữa. Trong mấy giờ đó Israel đủ tàn phá các phi trường Ai Cập, rồi mà quay trở lại tấn công, không lực của ba nước kia, vì vậy họ chỉ để lại mười hai phi cơ che chở tất cả thành thị, cơ quan, đồn ải trong nước
Họ gan thật! Họ cả gan vì họ đã tính đúng và họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ lâu, luôn trong mấy năm, họ đã luyện cho không quân của họ ở trong tình trạng báo động suốt ngày, suốt đêmvà ba trăm sáu mươi lăm ngày một năm.
Họ chỉ tấn công phi trường, không hề tấn công nhà máy, cầu cống, các mục tiêu quân sự khác, ngay tới đập Assouan mà Ai Cập lo bị phá nhất, họ cũng không đụng tới.
Họ làm bất thình lình, tới nỗi nông dân Ai Cập đưa tay vẫy họ khi họ bay qua, tưởng phi cơ của mình. Tới phi trường Le Caire, họ bay chỉ cách mặt đất có ba chục thước, nhưng họ được lệnh không tấn công thành phố đó. Theo Samuel Seguev.
Họ đã tính trước: phải mất một giờ, nhà cầm quyền Ai Cập mới biết được việc gì đã xảy ra. Phải mất thêm một giờ nữa. Syrie, Iraq, Jordanie mới được Ai Cập cho biết tin tức. Họ lại mất tuột thòi gian để quân đội chuẩn bị xuất phát nữa. Trong mấy giờ đó Israel đủ tàn phá các phi trường Ai Cập, rồi mà quay trở lại tấn công, không lực của ba nước kia, vì vậy họ chỉ để lại mười hai phi cơ che chở tất cả thành thị, cơ quan, đồn ải trong nước
Họ gan thật! Họ cả gan vì họ đã tính đúng và họ đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ lâu, luôn trong mấy năm, họ đã luyện cho không quân của họ ở trong tình trạng báo động suốt ngày, suốt đêmvà ba trăm sáu mươi lăm ngày một năm.
Họ chỉ tấn công phi trường, không hề tấn công nhà máy, cầu cống, các mục tiêu quân sự khác, ngay tới đập Assouan mà Ai Cập lo bị phá nhất, họ cũng không đụng tới.
Họ làm bất thình lình, tới nỗi nông dân Ai Cập đưa tay vẫy họ khi họ bay qua, tưởng phi cơ của mình. Tới phi trường Le Caire, họ bay chỉ cách mặt đất có ba chục thước, nhưng họ được lệnh không tấn công thành phố đó. Theo Samuel Seguev.
Kết quả ngoài sự ước mong của họ: các phi trường Ai Cập thành những nhị tì phi cơ, xác phi cơ nằm ngổn ngang, nhiều chiếc mới tinh, chưa sử dụng lần nào.
Tất cả thế giới đền ngạc nhiên, không hiểu tại sao phi công Israel nhắm trúng đích một cách lạ lùng như vậy. Báo chí hồi đó đồn rầm lên rằng Israel có một khí giới bí mật nào đó. Chính Louis Garros trong bài báo đã dẫn cũng bảo, không còn ngờ gì nữa, chính nhờ khí giới bí mật đó nên họ nới có được kỳ công ấy. Có người lại đoán trong khí giới đó là một thứ bom nổ chậm nó xuyên qua lớp dầu hắc trải trên các đường bay, chứ không dội lên, rồi vài phút sau mới nổ. Nhưng Samuel Seguev trong “La guerre de six jours” bảo người đã điều tra, xem xét các tấm hình, thấy các sự tàn phá đều do bom và rocket thường, chẳng có khí giới nào bí mật cả.
Vậy sau tám mươi phút, tướng Hod - tư lệnh không quân Israël - báo tin thắng trận cho tướng Rabin, tham mưu trưởng. Chỉ có mấy chữ: “Sinai đã trống không”.
Dĩ nhiên, ta phải hoàn toàn câu đó là “ không phải Sinai trống không”. Vì cuộc lục chiến lúc đó mới bắt đầu.
Cũng như trận 1956, lần này quân đội Israël tấn công Sinai theo ba trục:
- Trục Bắc, tướng Tal tấn công Rafiah, cái nút của Gaza, rồi một mặt tiến chiếm hết miền Gaza, một mặt tiến chiếm hết miền Gaza, một mặt tiến qua Tây, theo đường biển, tới El Arich.
Quân Ai Cập chống cự mãnh liệt ở Rafiah và El Arich. Israël phải dùng đội nhảy dù, thiết giáp xa, thiệt hại hơi nhiều, nhưng cuối ngày thứ nhất tới được El Arich, cuối ngày thứ ba tới bờ kinh Suez, ngày thứ tư tới Talata, hợp với đạo quân của trục trung tâm.
- Trục trung tâm. Miền này là miền đồi cát. Quân Israël do tướng Yaffee chỉ huy, ngày đầu tấn công Abou Agheila, ngày sau tới Djbel Libni, ngày thứ ba tới Gafgafa ở đây có đụng độ kịch liệl, và ngày thứ tư tớỉ Talata, hợp với đạo quan của trục Bắc.
- Trục Nam do tướng Charon chỉ huy, ngày thứ nhì chiếm Kuseima, ngày thứ ba tới Nakhi giữa bán đảo, ngày thứ tư tới Mitla.
Ba đạo quân đó tới kinh Suez, để lại một số quân chiếm đóng, rồi theo bờ vịnh Suez mà tiến xuống cực nam bán đảo tới El Tour thì gặp một đạo thủy quân tiến theo vịnh Akaba.
Vậy là ngày 8-6-1967, toàn bộ bán đảo Sinai đã bị chiếm, đồn Charmel Cheik ở cực nam lọt vào tay thủy quân Israel, eo biển Tiran và vịnh Akaba được giải toả. Năm giờ sáng hôm sau, sau tám mươi tám giờ chiến đấu không ngừng, viên Tổng tư lệnh mặt trận phương Nam, tức mặt trận Sinai, tướng Gavish, đánh điện cho Tổng tham mưu trưởng Rabin:
“Quân lực chúng ta đóng ở bờ kinh Suez và Hồng Hải. Tất cả bán đảo Sinai ở trong tay chúng ta. Chiến dịch Sinai kết thúc!”.
Ngày hôm trước Nasser đã thấy không thể tiếp tục cuộc chiến đấu được nữa. Mohamed Awad El Kouni khóc nấc lên khi báo cho Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc rằng chính phủ ông bằng lòng ngưng chiến.
Quân đội Ai Cập đã anh dũng chiến đấu ở vải nơi, nhất là ở Abou - Agueila, nhưng xét chung tinh thần rất kém; họ đầu hàng hoặc chạy trốn cả đám, lột áo cởi giày mà chạy (có chỗ chất cả vạn đôi giày) để lại cho Israel từng đống, hàng kho khí giới, cả những xe thiết giáp, những cỗ pháo 160 ly mới nhất của Nga mà họ chưa hề dùng tới (6), cả những dàn hoả tiễn y nguyên nữa.
Lỗi không phải tại họ, họ không được khéo chỉ huy, có kẻ mới nhập ngũ, chưa biết sử dụng khí giới, có kẻ lại phải nhịn đói nhịn khát ba ngày, và quân Israel cho nửa ly nước, thì họ mừng đến nhỏ lệ.
Kết quả: phía Ai Cập: 10.000 quân bị giết, 5.000 bị cầm tù, trong số đó có 9 tướng lãnh và 350 cấp tá, uý. 400-500 phi cơ bị phá huỷ, 400 xe tăng, bị tan nát, 300 còn y nguyên, lọt vào tay quân đội Israel.
Phía Israel: 275 người bị giết, 800 bị thương, 61 xe tăng bị phá huỷ.
***
Trận Jordanie. Vì ngày đầu đem toàn lực để diệt chủ não của khối Ả Rập tức Ai Cập, nên ở phía đông, tức trên mặt trận Jordanie, Israel không thể mở cuộc tấn công ồ ạt ngay được, với lại chính bộ tham mưu Israel không ngờ rằng Jordanie tích cực tham chiến.
Từ trước, vua Hussein vẫn thân Tây phương, nhận sự giúp đỡ của Mỹ, Anh về khí giới, quân nhu, nhờ Anh, Mỹ huấn luyện, tổ chức các binh đoàn.
Mãi đến ngày 31-5-1967 mới đứng về phe Nasser.
Vậy thì người ta có thể đoán rằng Hussein sẽ miễn cưỡng giao chiến để Nasser khỏi trách vào đâu được, rồi chờ coi tình hình.
Lời tiên đoán đó sai. Quân Jordanie đã mở cuộc tấn công gần Tel Aviv trong khi cả lữ đoàn nhảy dù Do Thái đã lên hết phi cơ vận tải để sắp bay sang đánh tập hậu qua Ai Cập trên bán đảo Sinai: Lữ đoàn đó đành rời khỏi máy bay, đáp xe bus đã trưng dụng mà tiến về phía Jerusalem. Tiếp theo đó một lữ đoàn thiết giáp kéo đến tăng viện.
Cuộc chiến đấu ở Jerusalem rất khó khăn vì phải chiếm từng khúc đường, từng căn nhà, nhất là phải tránh đền Jerusalem và các di tích cổ. Hai bên đều tỏ ra dũng cảm. Rốt cuộc, ngày 7-6-1967 quân Israel cũng chiếm được thành cũ, tới “Bức tường Than khóc” mà từ 20 năm qua không một người Do Thái nào được đặt chân tới.
Hàng trăm lính Do Thái chen chúc nhau trên khoảng đất chữ nhật dưới chân tường, áp má vào bức tường mà nước mắt ròng ròng. Một là quốc kỳ Israel nền trắng, hai xọc xanh dương, và một ngôi sao David cũng xanh dương được kéo lên ở trên bức tường và mọi người đều la lớn: “Năm nay về Jerusalem!”.
Dayan, Rabin, Eshkol đều tới. Họ đều tuyên bố với quân đội rằng sẽ quyết tâm giữ Jerusalem, không khi nào chịu rời khu đất có bức tường Than khóc đó nữa. Các tôn giáo khác, sẽ được tôn trọng, tín đồ Ki-tô giáo và Hồi giáo, được tự do thờ phụng, nhưng Jerusalem sẽ không bị chia cắt như trước nữa.
Trong khi đó, bộ chỉ huy Israel phái một cánh quân đánh chiếm Naplouse, Djenine và tiến tới bờ sông Jourdain: Ngày 8-6, Israel chiếm được Jericho, một thị trấn cổ nhất thế giới, nằm trên đường từ Jerusalem tới sông Jourdain, cách sông Jourdain sáu bảy cây số.
Thế là Israel đã chiếm trọn hệt đất của Jordanie nằm ở phía tây sông Jourdain, miếng mẻ trên lưỡi dao Israel đã gắn lại được.
Buổi chiều 8-6-1967, vua Hussein tuyên bố với quốc dân, giọng thực cảm động:
“Quân đội chúng ta đã đổ máu để bảo vệ từng thước đất của non sông và máu của họ còn chưa khô.
“Bây giờ sự tình đã như vậy rồi. Lòng tôi nát ngấu khi nghĩ đến những chiến sĩ đã gục trên chiến trường...
“Anh em đồng bào, hình như chúa Allah đã bắt dòng dõi của tôi phải đau khổ và hy sinh bất tuyệt cho dân tộc, tai hoạ chúng ta phải chịu hôm nay lớn hơn tất cả những cái người ta có thể tưởng tượng nổi. Nhưng dù có mênh mông tới đâu, dù phải trả một giá nào đi nữa, thì chúng ta cũng sẽ cương quyết xây dựng lại những gì chúng ta đã mất…”.
Kết quả: phía Jordanie: trên 6.000 người tử thương hoặc mất tích (có lẽ chỉ có độ 1.500 tử thương, còn lbao nhiêu là đào ngũ), 760 bị thương, 460 bị cầm tù, khoảng 100 chiến xa bị phá huỷ (một phần ba tổng số) phi cơ hình như bị huỷ gần hết.
Phía Israel: 350 tử thương, 300 bị thương.
***
Trận Syrie
Tại mặt trận phía bắc, tức Syrie, chiến lược hoàn toàn khác. Nhà cầm quyền Syrie hăng chiến đấu hơn hết và tin sẽ thắng vì lực lượng khá mạnh: 75.000 quân, 400 thiết giáp xa, lại được lợi thế là cao nguyên Golan hiểm trở và có nhiều thành luỹ kiên cố do Đức rồi Nga xây cất, khí giới tối tân và đầy đủ. Nhưng Syrie có nhược điểm rất lớn: vì đường lối chính trị, tình hình luôn xáo động, có những cuộc thanh trừng liên tiếp trong giới chỉ huy từng có kinh nghiệm: chỉ riêng đầu năm 1966, đã có ít nhất là 87 sĩ quan bị giáng chức hay huyền chức, bọn ở dưới lên thay hầu hết thiếu khả năng.
Mặc dầu vậy, chiến trường Syrie cũng làm cho Israel tổn thất nhiều nhất tuy ngay từ lúc đầu họ đã làm chủ không phận.
Quân Israel phải dùng chiến thuật: đánh tiêu hao và tấn công bất ngờ. Họ dùng oanh tạc cơ dội bom dồn dập vào các phòng tuyến địch, nã đại bác vào hậu tuyến địch trong ngót năm giờ liền, rồi từ thung lũng sông Jourdain như một cái hố vừa rộng vừa sâu, họ phải đánh thốc tên dốc cao, dưới hoả lực xối xả của địch, phải vượt qua các bãi mìn, lưới thép gai của nhiều công cụ kiên cố.
“Chiếc búa tạ” của Israël giúp cho Israel xâm nhập được một vài nơi, rồi từ đó tản ra, chuẩn bị cho các cuộc tiến quân của đoàn thiết giáp.
Một trung đội của Israël sau một ngày giao phong chỉ còn có hai người là đủ sức chiến đấu.
Kết quả, phía Syrie: 200 chết, 5.000 bị thương, 80 xe tăng bị huỷ, 40 bị cướp (tổng số là 300).
Phía Israël: 115 chết, 306 bị thương.
Họ chiếm được một vùng rộng 20-30 cây số bên bờ phía đông sông Jourdain. 18 giờ rưỡi hôm 10-6-1967, theo lệnh Liên hiệp quốc hai bên ngưng chiến, nhưng mấy giờ trước đó, bộ trưởng ngoại giao của Syrie là Ibrahim Makhous còn tuyên bố với thế giới: “Syrie đã thua một trận, chứ không thua một cuộc chiến tranh, sở dĩ thua là vì không được không quân yểm hộ, không lực của Ai Cập đã tan rã từ ngày đầu”
Sau cùng, chúng ta nên ghi thêm: hải quân Israël đã hoạt động trên hai mặt: Địa Trung Hải và Hồng Hải, chiếm được Charm El Cheik ở cực nam bán đảo Sinai, giúp cho lục quân mau hoàn thành được nhiệm vụ.
***
Nguyên nhân thắng lợi của Israel. Nhiều người đã bàn về nguyên nhân thắng lợi của Israel, hoặc trong một cuốn sách như “La guerre de six jours” của Seguev, hoặc trong một bài báo như Léo Heiman trong tuần san “Military Review (7) do Việt Tấn Xã dịch lại số 6.146, ngày 9-11-1968, và Louis Garros trong số Historama đã dẫn. Chúng tôi xin thu thập và xếp đặt lại thành bốn nguyên nhân dưới đây:
Quân Ai Cập chống cự mãnh liệt ở Rafiah và El Arich. Israël phải dùng đội nhảy dù, thiết giáp xa, thiệt hại hơi nhiều, nhưng cuối ngày thứ nhất tới được El Arich, cuối ngày thứ ba tới bờ kinh Suez, ngày thứ tư tới Talata, hợp với đạo quân của trục trung tâm.
- Trục trung tâm. Miền này là miền đồi cát. Quân Israël do tướng Yaffee chỉ huy, ngày đầu tấn công Abou Agheila, ngày sau tới Djbel Libni, ngày thứ ba tới Gafgafa ở đây có đụng độ kịch liệl, và ngày thứ tư tớỉ Talata, hợp với đạo quan của trục Bắc.
- Trục Nam do tướng Charon chỉ huy, ngày thứ nhì chiếm Kuseima, ngày thứ ba tới Nakhi giữa bán đảo, ngày thứ tư tới Mitla.
Ba đạo quân đó tới kinh Suez, để lại một số quân chiếm đóng, rồi theo bờ vịnh Suez mà tiến xuống cực nam bán đảo tới El Tour thì gặp một đạo thủy quân tiến theo vịnh Akaba.
Vậy là ngày 8-6-1967, toàn bộ bán đảo Sinai đã bị chiếm, đồn Charmel Cheik ở cực nam lọt vào tay thủy quân Israel, eo biển Tiran và vịnh Akaba được giải toả. Năm giờ sáng hôm sau, sau tám mươi tám giờ chiến đấu không ngừng, viên Tổng tư lệnh mặt trận phương Nam, tức mặt trận Sinai, tướng Gavish, đánh điện cho Tổng tham mưu trưởng Rabin:
“Quân lực chúng ta đóng ở bờ kinh Suez và Hồng Hải. Tất cả bán đảo Sinai ở trong tay chúng ta. Chiến dịch Sinai kết thúc!”.
Ngày hôm trước Nasser đã thấy không thể tiếp tục cuộc chiến đấu được nữa. Mohamed Awad El Kouni khóc nấc lên khi báo cho Hội đồng bảo an Liên hiệp quốc rằng chính phủ ông bằng lòng ngưng chiến.
Quân đội Ai Cập đã anh dũng chiến đấu ở vải nơi, nhất là ở Abou - Agueila, nhưng xét chung tinh thần rất kém; họ đầu hàng hoặc chạy trốn cả đám, lột áo cởi giày mà chạy (có chỗ chất cả vạn đôi giày) để lại cho Israel từng đống, hàng kho khí giới, cả những xe thiết giáp, những cỗ pháo 160 ly mới nhất của Nga mà họ chưa hề dùng tới (6), cả những dàn hoả tiễn y nguyên nữa.
Lỗi không phải tại họ, họ không được khéo chỉ huy, có kẻ mới nhập ngũ, chưa biết sử dụng khí giới, có kẻ lại phải nhịn đói nhịn khát ba ngày, và quân Israel cho nửa ly nước, thì họ mừng đến nhỏ lệ.
Kết quả: phía Ai Cập: 10.000 quân bị giết, 5.000 bị cầm tù, trong số đó có 9 tướng lãnh và 350 cấp tá, uý. 400-500 phi cơ bị phá huỷ, 400 xe tăng, bị tan nát, 300 còn y nguyên, lọt vào tay quân đội Israel.
Phía Israel: 275 người bị giết, 800 bị thương, 61 xe tăng bị phá huỷ.
***
Trận Jordanie. Vì ngày đầu đem toàn lực để diệt chủ não của khối Ả Rập tức Ai Cập, nên ở phía đông, tức trên mặt trận Jordanie, Israel không thể mở cuộc tấn công ồ ạt ngay được, với lại chính bộ tham mưu Israel không ngờ rằng Jordanie tích cực tham chiến.
Từ trước, vua Hussein vẫn thân Tây phương, nhận sự giúp đỡ của Mỹ, Anh về khí giới, quân nhu, nhờ Anh, Mỹ huấn luyện, tổ chức các binh đoàn.
Mãi đến ngày 31-5-1967 mới đứng về phe Nasser.
Vậy thì người ta có thể đoán rằng Hussein sẽ miễn cưỡng giao chiến để Nasser khỏi trách vào đâu được, rồi chờ coi tình hình.
Lời tiên đoán đó sai. Quân Jordanie đã mở cuộc tấn công gần Tel Aviv trong khi cả lữ đoàn nhảy dù Do Thái đã lên hết phi cơ vận tải để sắp bay sang đánh tập hậu qua Ai Cập trên bán đảo Sinai: Lữ đoàn đó đành rời khỏi máy bay, đáp xe bus đã trưng dụng mà tiến về phía Jerusalem. Tiếp theo đó một lữ đoàn thiết giáp kéo đến tăng viện.
Cuộc chiến đấu ở Jerusalem rất khó khăn vì phải chiếm từng khúc đường, từng căn nhà, nhất là phải tránh đền Jerusalem và các di tích cổ. Hai bên đều tỏ ra dũng cảm. Rốt cuộc, ngày 7-6-1967 quân Israel cũng chiếm được thành cũ, tới “Bức tường Than khóc” mà từ 20 năm qua không một người Do Thái nào được đặt chân tới.
Hàng trăm lính Do Thái chen chúc nhau trên khoảng đất chữ nhật dưới chân tường, áp má vào bức tường mà nước mắt ròng ròng. Một là quốc kỳ Israel nền trắng, hai xọc xanh dương, và một ngôi sao David cũng xanh dương được kéo lên ở trên bức tường và mọi người đều la lớn: “Năm nay về Jerusalem!”.
Dayan, Rabin, Eshkol đều tới. Họ đều tuyên bố với quân đội rằng sẽ quyết tâm giữ Jerusalem, không khi nào chịu rời khu đất có bức tường Than khóc đó nữa. Các tôn giáo khác, sẽ được tôn trọng, tín đồ Ki-tô giáo và Hồi giáo, được tự do thờ phụng, nhưng Jerusalem sẽ không bị chia cắt như trước nữa.
Trong khi đó, bộ chỉ huy Israel phái một cánh quân đánh chiếm Naplouse, Djenine và tiến tới bờ sông Jourdain: Ngày 8-6, Israel chiếm được Jericho, một thị trấn cổ nhất thế giới, nằm trên đường từ Jerusalem tới sông Jourdain, cách sông Jourdain sáu bảy cây số.
Thế là Israel đã chiếm trọn hệt đất của Jordanie nằm ở phía tây sông Jourdain, miếng mẻ trên lưỡi dao Israel đã gắn lại được.
Buổi chiều 8-6-1967, vua Hussein tuyên bố với quốc dân, giọng thực cảm động:
“Quân đội chúng ta đã đổ máu để bảo vệ từng thước đất của non sông và máu của họ còn chưa khô.
“Bây giờ sự tình đã như vậy rồi. Lòng tôi nát ngấu khi nghĩ đến những chiến sĩ đã gục trên chiến trường...
“Anh em đồng bào, hình như chúa Allah đã bắt dòng dõi của tôi phải đau khổ và hy sinh bất tuyệt cho dân tộc, tai hoạ chúng ta phải chịu hôm nay lớn hơn tất cả những cái người ta có thể tưởng tượng nổi. Nhưng dù có mênh mông tới đâu, dù phải trả một giá nào đi nữa, thì chúng ta cũng sẽ cương quyết xây dựng lại những gì chúng ta đã mất…”.
Kết quả: phía Jordanie: trên 6.000 người tử thương hoặc mất tích (có lẽ chỉ có độ 1.500 tử thương, còn lbao nhiêu là đào ngũ), 760 bị thương, 460 bị cầm tù, khoảng 100 chiến xa bị phá huỷ (một phần ba tổng số) phi cơ hình như bị huỷ gần hết.
Phía Israel: 350 tử thương, 300 bị thương.
***
Trận Syrie
Tại mặt trận phía bắc, tức Syrie, chiến lược hoàn toàn khác. Nhà cầm quyền Syrie hăng chiến đấu hơn hết và tin sẽ thắng vì lực lượng khá mạnh: 75.000 quân, 400 thiết giáp xa, lại được lợi thế là cao nguyên Golan hiểm trở và có nhiều thành luỹ kiên cố do Đức rồi Nga xây cất, khí giới tối tân và đầy đủ. Nhưng Syrie có nhược điểm rất lớn: vì đường lối chính trị, tình hình luôn xáo động, có những cuộc thanh trừng liên tiếp trong giới chỉ huy từng có kinh nghiệm: chỉ riêng đầu năm 1966, đã có ít nhất là 87 sĩ quan bị giáng chức hay huyền chức, bọn ở dưới lên thay hầu hết thiếu khả năng.
Mặc dầu vậy, chiến trường Syrie cũng làm cho Israel tổn thất nhiều nhất tuy ngay từ lúc đầu họ đã làm chủ không phận.
Quân Israel phải dùng chiến thuật: đánh tiêu hao và tấn công bất ngờ. Họ dùng oanh tạc cơ dội bom dồn dập vào các phòng tuyến địch, nã đại bác vào hậu tuyến địch trong ngót năm giờ liền, rồi từ thung lũng sông Jourdain như một cái hố vừa rộng vừa sâu, họ phải đánh thốc tên dốc cao, dưới hoả lực xối xả của địch, phải vượt qua các bãi mìn, lưới thép gai của nhiều công cụ kiên cố.
“Chiếc búa tạ” của Israël giúp cho Israel xâm nhập được một vài nơi, rồi từ đó tản ra, chuẩn bị cho các cuộc tiến quân của đoàn thiết giáp.
Một trung đội của Israël sau một ngày giao phong chỉ còn có hai người là đủ sức chiến đấu.
Kết quả, phía Syrie: 200 chết, 5.000 bị thương, 80 xe tăng bị huỷ, 40 bị cướp (tổng số là 300).
Phía Israël: 115 chết, 306 bị thương.
Họ chiếm được một vùng rộng 20-30 cây số bên bờ phía đông sông Jourdain. 18 giờ rưỡi hôm 10-6-1967, theo lệnh Liên hiệp quốc hai bên ngưng chiến, nhưng mấy giờ trước đó, bộ trưởng ngoại giao của Syrie là Ibrahim Makhous còn tuyên bố với thế giới: “Syrie đã thua một trận, chứ không thua một cuộc chiến tranh, sở dĩ thua là vì không được không quân yểm hộ, không lực của Ai Cập đã tan rã từ ngày đầu”
Sau cùng, chúng ta nên ghi thêm: hải quân Israël đã hoạt động trên hai mặt: Địa Trung Hải và Hồng Hải, chiếm được Charm El Cheik ở cực nam bán đảo Sinai, giúp cho lục quân mau hoàn thành được nhiệm vụ.
***
Nguyên nhân thắng lợi của Israel. Nhiều người đã bàn về nguyên nhân thắng lợi của Israel, hoặc trong một cuốn sách như “La guerre de six jours” của Seguev, hoặc trong một bài báo như Léo Heiman trong tuần san “Military Review (7) do Việt Tấn Xã dịch lại số 6.146, ngày 9-11-1968, và Louis Garros trong số Historama đã dẫn. Chúng tôi xin thu thập và xếp đặt lại thành bốn nguyên nhân dưới đây:
1. Israël có những người cầm quân tài giỏi. Trước hết ta nên bỏ cái thành kiến rằng lực lượng Ả Rập mạnh gấp 10 gấp 20 lân Israël. Xét về dân số thì như vậy thật nhưng xét về lực lượng chiến đấu, nghĩa là quân số thì lực lượng hai bên ngang nhau.
Theo Léo Heiman, Israel đã động viên được từ 250.000 tới 300.000 người: Phía Ả Rập tuy có 400.000 - 500.000 quân, nhưng thực sự chỉ có khoảng 300.000 quân dự chiến thôi.
Nếu ta kể cả những dân chúng Israël đã gián tiếp dự vào chiến cuộc bằng cách giúp đỡ nhân lực xe cộ, dụng cụ lặt vặt, thì cán câu chúc hẳn về phía Israël.
Về khí giới, Ả Rập có nhiều hơn, nhưng ai cũng nhận những phi cơ Mirage của Pháp rất tốt, trong trận đó tỏ ra lợi hại hơn các phi cơ chiến đấu của Nga, Tiệp chế tạo.
Vậy về lực lượng vật chất của hai bên, ta có thể nói là xuýt xoát như nhau.
Ưu điểm thứ nhất của Israël là có được những nhà cầm đầu tài giỏi, đặc biệt là Moshé Dayan - Bộ trưởng quốc phòng và Yitzhak Rabin - Tổng tham mưu trưởng.
Moshé Dayan đã ở trong quân đội Anh chiến đấu với Đức trong thế chiến thứ nhì, rồi chỉ huy trong chiến tranh Độc lập của Israël năm 1948-1949, làm tư lệnh quân lực Israël từ 1954 tới 1958, nổi tiếng là bách chiến bách thắng.
Ông chủ trương buộc các sĩ quan từ các tướng tá trở xuống luôn luôn phải xung phong trước quân sĩ để nêu gương, vì vậy, mà tỉ số sĩ quan tử thương của Israël rất cao. Tướng phải ở tiền tuyến chứ không được chỉ huy một tổng hành dinh ở hậu tuyến. Mọi việc chuyển quân của lực lượng trừ bị, mọi việc phối hợp đều có thể để các chỉ huy phó đảm nhiệm.
Tướng Yitzhak Rabin thuộc thế hệ trẻ, sinh năm 1922 đã được huấn luyện trong một Kibboutz rồi trong tổ chức Hagana, năm 1946 bị quân Anh bắt giam, ông đã dự nhiều trận đánh trong hai chiến dịch 1948 và 1956. Có tài tổ chức, hiểu rõ tất cả các vấn đề quân sự, tia mắt lúc thì như lửa, lúc thì như băng, chí quyết thắng không kém Moshé Dayan mà ông trọng như sư phụ.
Ông chủ trương rằng chiến thắng mà chưa hoàn bị là vì chưa hoàn toàn tiêu diệt được địch, cho nên ông rèn luyện quân sĩ thật thành thục để quyết hạ cho kỳ được các vị trí kiên cố. Ngoài ra, tướng Yigael, tướng Mordekhai Hod, tư lệnh không quân cũng đều có tài ba.
Nếu ta kể cả những dân chúng Israël đã gián tiếp dự vào chiến cuộc bằng cách giúp đỡ nhân lực xe cộ, dụng cụ lặt vặt, thì cán câu chúc hẳn về phía Israël.
Về khí giới, Ả Rập có nhiều hơn, nhưng ai cũng nhận những phi cơ Mirage của Pháp rất tốt, trong trận đó tỏ ra lợi hại hơn các phi cơ chiến đấu của Nga, Tiệp chế tạo.
Vậy về lực lượng vật chất của hai bên, ta có thể nói là xuýt xoát như nhau.
Ưu điểm thứ nhất của Israël là có được những nhà cầm đầu tài giỏi, đặc biệt là Moshé Dayan - Bộ trưởng quốc phòng và Yitzhak Rabin - Tổng tham mưu trưởng.
Moshé Dayan đã ở trong quân đội Anh chiến đấu với Đức trong thế chiến thứ nhì, rồi chỉ huy trong chiến tranh Độc lập của Israël năm 1948-1949, làm tư lệnh quân lực Israël từ 1954 tới 1958, nổi tiếng là bách chiến bách thắng.
Ông chủ trương buộc các sĩ quan từ các tướng tá trở xuống luôn luôn phải xung phong trước quân sĩ để nêu gương, vì vậy, mà tỉ số sĩ quan tử thương của Israël rất cao. Tướng phải ở tiền tuyến chứ không được chỉ huy một tổng hành dinh ở hậu tuyến. Mọi việc chuyển quân của lực lượng trừ bị, mọi việc phối hợp đều có thể để các chỉ huy phó đảm nhiệm.
Tướng Yitzhak Rabin thuộc thế hệ trẻ, sinh năm 1922 đã được huấn luyện trong một Kibboutz rồi trong tổ chức Hagana, năm 1946 bị quân Anh bắt giam, ông đã dự nhiều trận đánh trong hai chiến dịch 1948 và 1956. Có tài tổ chức, hiểu rõ tất cả các vấn đề quân sự, tia mắt lúc thì như lửa, lúc thì như băng, chí quyết thắng không kém Moshé Dayan mà ông trọng như sư phụ.
Ông chủ trương rằng chiến thắng mà chưa hoàn bị là vì chưa hoàn toàn tiêu diệt được địch, cho nên ông rèn luyện quân sĩ thật thành thục để quyết hạ cho kỳ được các vị trí kiên cố. Ngoài ra, tướng Yigael, tướng Mordekhai Hod, tư lệnh không quân cũng đều có tài ba.
2. Tinh thần quân đội Israel rất cao. Dân tộc, nào thời nào cũng có những vị anh hùng, và trong chiến tranh nào cả hai bên cũng có những người cảm tử. Những gương hy sinh mà người ta thường kể về phía Israël - như một viên sĩ quan Israël bị thương ở vai bên phải, mà vẫn sử dụng liên thanh bằng tay trái, hoặc nhiều sĩ quan thấy chiến xa của mình hư rồi, nhảy qua chiến xa khác để tiếp tục chiến đấu, những y sĩ bị thương băng bó qua loa cho mình rồi tiếp tục săn sóc thương binh tới khi kiệt sức mới chịu về hậu tuyến… những gương hy sinh đó chắc chắn bên Ả Rập cũng có, trong trận đánh nào cũng có.
Nhưng ta cũng phải nhận rằng trong trận 1967; tinh thần Israël cao hơn Ả Rập. Ả Rập chiến đấu cho một tin tưởng, tin tưởng ở Chúa, ở tinh thần dân tộc; Israël chiến đấu cũng cho một tin tưởng như vậy, lại còn cho sự tồn vong của họ nữa.Họ bị đặt vào chỗ chết, nên phải tìm một lối sống, họ hiểu rằng nếu họ không thắng thì họ sẽ bị tiêu diệt: họ ở cái thế ba phía là địch, một phía là biển, nên họ tự nhiên thành cảm tử hết. Lại thêm sĩ quan của họ làm gương cho họ; họ tin phục cấp chỉ huy, ngay từ ngày đầu đã thấy nắm chắc phần thắng trong tay cho nên càng hăng hái, coi thường gian nan như vậy họ càng dễ thắng.
3. Quân đội Israel được huấn luyện kỹ lưỡng. Một ưu điểm lớn của Israel là sĩ tốt có trình độ văn hoá cao hơn sĩ tốt Ai Cập. Bảy chục phần trăm người Ả Rập mù chữ, mà mù chữ thì không thể là chiến sĩ tốt được. Tôi không biết rõ tỉ số mù chữ ở Israel năm 1967 là bao nhiêu, nhưng có thể tin rằng nó rất thấp, vì từ 1949 chính quyền Israel đã tận lực khuếch trương nền giáo dục. Chúng ta nên nhớ mở nhiều trường là một cách bảo vệ quốc gia. Dân chúng có học thì mới biết chiến đấu, chẳng những họ hiểu mau mà còn có sáng kiến. Trong quân đội Israel, từ cấp trên xuống cấp dưới cấp nào cũng phải xung phong mà cấp nào cũng được có sáng kiến trong binh động: Mục tiêu định rõ rồi, họ phải tự lực thực hiện lấy, không chờ đợi chỉ thị tỉ mỉ của bộ Tổng tham mưu nữa. Họ phải xoay xở lấy, nhưng họ vẫn có kỷ luật tự họ chấp nhận. Ta nên nhớ trong giới binh lính và hạ sĩ quan của họ, có nhiều nhà trí thức, kỹ sư, giáo sư, luật sư, giám đốc xí nghiệp mà trong thời chiến, bảng giá trị lật ngược hẳn, những nhà đó vui vẻ tự đặt mình dưới sự chỉ huy của những thanh niên mới ở các Kibboutz ra, học ít nhưng chiến đấu giỏi. Đơn vị nào của họ cũng có người biết sửa xe cộ, súng ống, cả phi cơ nữa, nên tiến quân hoài không phải ngừng.
Quân đội Ả Rập trái lại, không có học mà lại không được huấn luyện kỹ. Nhiều binh sĩ chưa biết cách sử dụng súng ống. Họ dẻo dai, giỏi tự vệ, nhưng không biết quyền biến. Cấp chỉ huy của họ thiếu sáng kiến, thiếu tinh thấn trách nhiệm, chỉ theo đúng chỉ thị, khi thấy Israel dùng một chiến thuật mới mẻ thì lúng túng, không nhanh trí, không biết đối phó lại kịp. Chiến tranh đó là chiến tranh chớp nhoáng, cần phải thần tốc, uyển chuyển mà tổ chức của họ nặng nề, tinh thần của họ thủ cựu, vẫn giũ chiến thuật, cả những nhược điểm của họ từ năm 1956.
4. Sau cùng nguyên nhân thứ tư là chiến thuật và kỹ thuật của Israël tài tình, mới mẻ, linh động. Ở trên tôi đã nói, kỹ thuật tình báo của họ đã giúp cho không quân biết rõ từng chi tiết về các phi trường Ai Cập nên hễ dội bom là trúng, nhờ vậy mà hai giờ sau khi khai chiến, phần thắng đã về họ. Cơ quan tình báo của Ả Rập kém xa, Nasser tin ở sức mình, chưa chuẩn bị kỹ mà đã gây hấn nên mới đại bại.
Chiến thuật của Israël lần này cũng rất mới mẻ và có hiệu quả. Mục đích vẫn là phải chiếm trọn bán đảo Sinai trong vòng một tuần lễ y như chiến tranh 1956, nhưng phải dùng chiến thuật mới để Ai Cập không kịp đề phòng, không biết xoay xở cách nào. Họ dùng hai chiến thuật mới:
- Chiến thuật, đánh thốc. Họ tập trung mỗi đoàn xe thiết giáp, ồ ạt tiến lên, mở đường xuyên qua phòng tuyến địch, tấn công ồ ạt vào một vị trí. Họ làm như vậy được nhờ không lực của họ đã diệt xong không lực địch mà làm chủ hoàn toàn không phận và cũng nhờ hoả lực của họ rất mạnh. Ai Cập tưởng họ cũng như năm 1956, không tập trung như vậy, nên cũng rải rác các xe thiết giáp mà không cự nổi họ.
Khi một “lỗ hổng” đã được mở trong phòng tuyến địch, thiết giáp xa Israël xông lên, đánh bật để tiêu diệt quân địch. Song song với cuộc tiến quân đó, các lực lượng lưu động nhảy dù, bộ binh, và biệt động quân cơ giới cứ lao thẳng về phía kinh Suez, mà không bị một sức gì ngăn cản, vì họ đã làm chủ trên không.
Trong khi đó, quân Ai Cập lại cứ cẩn mật bảo vệ cánh sườn vì cứ lầm tưởng rằng Israël, thế nào cũng dùng chiến thuật bao vây như năm 1956, không ngờ lần này Israël cứ đánh thốc tới trước, tiêu diệt các vị trí kiên cố để tiến tới kinh Suez Họ đánh thốc mà lại đánh ngày, đêm không nghỉ. Khi đã bắt đầu đụng độ, từ sĩ quan tới binh sĩ đều không thiết ngủ, thiết ăn đúng giờ, đúng bữa nữa. Không có hỏa đầu vụ lưu động trên mặt trận. Con gái của tướng Moshé Dayan, cô Yael Davan, trung uý, tham dự chiến dịch, thức luôn trên ba ngày ba đêm.
Bộ tham mưu Israël cho rằng không có một quân đội nào có sức chiến đấu cả 24 tiếng đồng hồ trong nhiều ngày liền, thế nào cũng có một trong hai bên chịu đựng không nổi mà phải buông súng, bên, nào chịu đựng nổi là bên ấy thắng.
- Chiến thuật sương mù. Chiến thuật nhằm đánh lừa các sĩ quan cao cấp địch, gạt gẫm binh lính địch gây hoang mang và tạo sự rối loạn bộ chỉ huy tối cao của địch, tác hại đến tinh thần chiến đấu và làm tê liệt việc truyền mệnh lệnh của địch.
Chính nhằm mục đích đó mà bộ phận hữu trách Israel chỉ loan báo sự chiếm đóng đó đúng vào lúc chiến tranh chấm dứt. Chính thủ đoạn đó đã làm cho các lực lượng Ả Rập thống nhất lầm chết thôi.
Các máy bay Ả Rập đã có lần đua nhau hạ cánh xuống những phi trường do quân Israel chiếm xong từ hồi nào, như phi trường El Arish chẳng hạn. Các phi công Ả Rập cứ nhìn vào lá cờ Cộng hoà Ả Rập bay phất phới trước gió ở phi trường và nhận lệnh của đài kiểm soát không lưu, lanh lảnh giọng Ả Rập, lại đượm lối phát âm Ai Cập mà đâm đầu vào chỗ chết. Không làm sao được, vì có ai loan báo việc quân Israël đã chiếm xong phi trường El Arish bao giờ đâu?
Điểm khôi hài là thuật “sương mù” đó đã làm cho các lực lượng Ai Cập cứ tưởng quân họ đang trên đà chiến thắng, trực chỉ thủ đô Tel Aviv. (…). Đã thế, khi nghe các tin quân sự của Israël qua các làn sóng điện, bộ chỉ huy tối cao của Ả Rập lại lầm tưởng rằng quân Israël đang cầm cự trong cảnh tuyệt vọng, chẳng hạn trong sa mạc Negnev và trong miền Gaza; sự thực quân Israël đã tiến sâu đến sát các phòng tuyến Ai Cập trong sa mạc Sinaï rồi mà họ không hay.
Chính nhằm mục đích đó mà bộ phận hữu trách Israel chỉ loan báo sự chiếm đóng đó đúng vào lúc chiến tranh chấm dứt. Chính thủ đoạn đó đã làm cho các lực lượng Ả Rập thống nhất lầm chết thôi.
Các máy bay Ả Rập đã có lần đua nhau hạ cánh xuống những phi trường do quân Israel chiếm xong từ hồi nào, như phi trường El Arish chẳng hạn. Các phi công Ả Rập cứ nhìn vào lá cờ Cộng hoà Ả Rập bay phất phới trước gió ở phi trường và nhận lệnh của đài kiểm soát không lưu, lanh lảnh giọng Ả Rập, lại đượm lối phát âm Ai Cập mà đâm đầu vào chỗ chết. Không làm sao được, vì có ai loan báo việc quân Israël đã chiếm xong phi trường El Arish bao giờ đâu?
Điểm khôi hài là thuật “sương mù” đó đã làm cho các lực lượng Ai Cập cứ tưởng quân họ đang trên đà chiến thắng, trực chỉ thủ đô Tel Aviv. (…). Đã thế, khi nghe các tin quân sự của Israël qua các làn sóng điện, bộ chỉ huy tối cao của Ả Rập lại lầm tưởng rằng quân Israël đang cầm cự trong cảnh tuyệt vọng, chẳng hạn trong sa mạc Negnev và trong miền Gaza; sự thực quân Israël đã tiến sâu đến sát các phòng tuyến Ai Cập trong sa mạc Sinaï rồi mà họ không hay.
Tại Jordanie cũng vậy, Israël không hề loan báo việc chiếm đóng thị trấn Jericho, một thị trấn có nhiều di tích lịch sử và tôn giáo, làm cho nhật báo các nước mất cơ hội lược thuật khi chiến thắng đó.
Ngay đến người Do Thái cũng chỉ hay tin chiến thắng đó 48 giờ sau khi chiếm được thị trấn vào lúc đài phát thanh Tel Aviv công bố thành, lập một chính phủ quân nhân để quản trị những vùng đã chiếm được, trong số đó có Jericho.
Phía Ả Rập thì trái lại, luôn luôn có giọng tuyên truyền huênh hoang. Chẳng hạn tối 5-6-1967 đài phát thanh Le Caire tuyên bố: “Lực lượng Ai Cập hôm nay đã tiến vô bờ cõi Israël và đem chiến tranh vào đất địch. Chính Eshkol và Dayan đã phải thú nhận rằng chiến tranh đương diễn trên đất họ và quân đội họ bị thiệt hại nặng (…) Sáu chục phi cơ địch đã bị hạ, tám phi công bị cầm tù…”.
Hôm sau, cũng đài đó loan báo: “Hỡi các người Ả Rập anh dũng! Quân đội chiến thắng của chúng ta đã vô Israël để diệt cái ung nhọt Sion. Chiến thắng của chúng ta kế tiếp nhau theo một nhịp điệu thần tốc. Đạo quân xuất phát từ Jordanie đương tiêu diệt xóm làng địch ở gần Tel Aviv. Các lực lượng anh dũng Syrie đã vượt biên giới Israël và quân địch ngã gục như như ruồi. Hiện nay chúng ta đã vô đất Palestin hết rồi và đương bay tới chiến thắng…”.
Có sách nói chính vì những lời tuyên bố huênh hoang đó của Le Carie mà Jordanie ngày đầu không rõ cái nguy cơ của Ai Cập nên không đánh mạnh ngay để cứu Ai Cập, khi họ ra tay thì lực lượng Israel đối phó kịp.
***
Hậu quả của chiến tranh 1967. Sáng ngày 6-6-1967, Nasser biết rằng, tình hình vô phương cứu vãn, và để vớt thể diện, ông ta mật bàn bằng điện thoại với quốc vương Hussein, loan một tin bậy, đổ lỗi cho Mỹ và Anh đã trực tiếp can thiệp vào trận đó.
Theo “La guerre de six jours” của Samuel Seguev(trang 154 – 155), cuộc mật đàm đó được ghi lại đại ý như sau:
Nasser hỏi Hussein có nên loan báo rằng Mỹ và Anh đã hợp tác với Israel không, hay nên chỉ loan báo một mình Mỹ đã hợp tác thôi.
Hussein đáp nên loan báo cả hai đã, hợp tác với Israel.
Nasser hỏi lại: Thế nhưng Anh có hàng không mẫu hạm không?
Hussein đáp: Có.
Nasser bảo: Như vậy được. Tôi sẽ ra một báo cáo. Phía ngài cũng vậy. Chúng ta cùng tuyên bố rằng phi cơ Mỹ và Anh xuất phát từ hàng không mẫu hạm của họ và tấn công chúng ta.
Vài giờ sau đài phát thanh Le Caire ra thông cáo rằng:
“Bộ chỉ huy tối cao Ai Cập đã phát giác sáng nay Mỹ và Anh đã tham dự các cuộc tấn công Ai Cập bằng phi cơ, cùng với không quân Israel (…). Phi cơ Mỹ và Anh đã yểm hộ không trung Israel. Các đài radar Jordanie cũng phát giác được nhiều phi cơ Mỹ và Anh”.
Tiếp theo các đài Jordanie và Syrie đăng tuyên bố như vậy. Vài quốc gia Ả Rập như Algérie, Iraq, Yemen, Soudan tin thật và muốn tuyệt giao với Mỹ, Anh.
Nhưng Kosygin không tin, báo chí Nga không lên tiếng, vì hệ thống radar của Nga không thấy một dấu hiệu nào tỏ rằng các hàng không mẫu hạm Anh, Mỹ hoạt động ở phía bán đảo Ả Rập.
Anh và Mỹ lên tiếng đính chính. Sau này Hussein thú thực rằng chuyện đó hoàn toàn bịa.
Tối 5-6-1967, Nasser tiếp xúc với sứ thần Nga ở Le Caire, yêu cầu Nga cung cấp ngay cho Ai Cập một số phi cơ để thay thế các phi cơ bị phá hủy. Sứ thần Nga hỏi lại: Các phi trường Ai Cập một phần lớn hư hại, một phần còn lại thì ở trong tầm súng đại bác của Israel, hoặc chưa dùng ngay được vì thiếu trang bị, có gởi phi cơ tới thì để ở đâu? Còn như gởi qua Lybie, chỉ cách căn cứ Villos Field có vài cây số thì khác gì khiêu khích Mỹ.
Nasser rất uất ức, trách Nga đã hứa đủ điều, nào là “chỉ những lúc khó khăn mới biết ai là bạn thân”, rồi “bây giờ bỏ rơi Ai Cập”. Đại sứ Nga đáp lại rằng Nga đã hứa can thiệp là khi nào Mỹ can thiệp trực tiếp kia, còn như chỉ có Israel và Ả Rập giao chiến với nhau thì Nga lấy lẽ gì mà can thiệp?
Nasser lúc đó ngã ngửa ra: ông quá tin vào Nga, có lẽ vì không hiểu chính sách sống chung hoà bình của Nga.
Nhưng chính Nga cũng ngượng mặt: gà nòi của mình không ngờ tệ hại như vậy. Nếu bỏ mặc Ai Cập thì mất mặt mình. Đành phải một mặt bênh vực ít lời ở Liên hiệp quốc, một mặt giúp đỡ Ai Cập tổ chức xây dựng lại binh lực.
Ngày 9-6-1967, Nasser tuyên bố với quốc dân, tự nhận hết lỗi và xin từ chức. Giọng ông rất thành thực, cảm động. Nhưng dân Ai Cập giữ ông lại vì xét ra chẳng có ai hơn ông. Vả lại, năm 1956 ông ta đã thắng cả Anh, Pháp và Israel thì lần này có thua Israel cũng là chuyện thường Trong bản diễn văn từ chức ông ta nói: “Hễ diệt được thực dân phương Tây thì Israel sẽ cô lập ở giữa các quốc gia Ả Rập. Dù hoàn cảnh ra sao, dù có cần một thời gian lâu dài thì rốt cuộc các lực lượng Ả Rập cũng sẽ dìm được Israel. Vậy chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu”.
Để tiếp tục cuộc chiến đấu sau này, Nasser xin Nga giúp đỡ vũ khí nữa. Một cầu hàng không cũng lớn như cầu hàng không của Mỹ ở Tây Berlin năm 1949, đã đổ xuống Ai Cập và Syrie vô số chiến xa, đại bác, thay thế, được 80% những tổn thất của Ả Rập. Để thay thế 15.000 quân bị giết, bị thương, Nasser gọi những lính từ Yemen về. Thủ đô Le Caire vẫn ở trong tình trạng phòng thủ. Người ta tuyển thêm dân quân, cải tổ chính phủ. Nasser kiêm luôn chức Thủ tưởng, cách chức viên Tổng tham mưu trưởng, tổ chức lại quân đội, phái người qua Nga nghiên cứu binh bị. Nga cũng phái nguyên soái Zakharov qua Ai Cập để tìm nguyên bại trận của Ả Rập và tỏ vẻ bất mãn về năng lực kém cỏi của quân đội Ai Cập. Vậy ra mấy trăm huấn luyện viên quân sự của Nga trong mười năm nay không huấn luyện được gì ư, và mù tịt về thực lực chiến đấu của học trò mình ư?
Các quốc gia khác cũng đua nhau võ trang: Syrie bị Israel phá 90% không lực, mua 25 chiếc MiG-21. Algérie, Iraq cũng xin Đông Âu súng đạn, Jordanie qua Ả Rập Saudi xin viện trợ, nói là tăng cường quân đội để trả thủ Do Thái, nhưng sự thực là để duy trì địa vị của họ ở trong nước.
Chuyện đó gấp nhất. Dân chúng nước nào cũng bất mẫn, thấy rõ bọn cầm quyền bất lực mà lại huênh hoang, nói láo một cách trắng trợn; thua liểng xiểng mà vẫn tuyên bố là “đại thắng, đã tới sát Tel Aviv, đương tận diệt Do Thái”.
Còn cả nạn kinh tế khó khăn nữa. Nước nào cũng thiếu tiền, kinh Suez đóng cửa. Ai Cập thiệt mỗi tuần một triệu rưỡi Mỹ kim. Thành Jérusalem bị Israel chiếm, Jordanie hết thu hoạch được tiền của du khách: 34 triệu Mỹ kim một năm, khu đất ở tây ngạn sông Jourdain sản xuất tới 80% ô-liu, 65% rau, 60% trái cây của toàn quốc, nay về Israel. Các nước khác như Ả Rập Saudi, Iraq, Kuwait vì tuyệt giao với Anh Mỹ không bán dầu cho họ nữa, cũng hao hư rất nặng.
Nội trị như vậy, còn ngoại giao thì họ cũng ở trong một thế yếu. Năm 1956, khắp thế giới bênh vực Ai Cập, mạt sát Israël vì Israël nổ súng trước và nhất là vì Israel theo đuôi Anh-Pháp, làm quân tốt cho Anh, Pháp. Lần này Israël cũng nổ súng trước nhưng người ta không cho điều đó là quan trọng. Ngay như De Gaulle ngày 2-6-1967, còn tuyên bố là nước nào gây hấn trước thì cũng sẽ bị Pháp phản đối, vậy mà khi chiến tranh bùng nổ ông ta cũng làm thinh. Hơn nữa dân chúng Pháp còn biểu tình ủng hộ Israël.
Ấn Độ, Miến Điện, Mã Lai… lần này cũng không lên tiếng. Người ta không hỏi: Nước nào nổ súng trước, mà hỏi nước nào muốn gây chiến? Lỗi về Jordanie đã quấy phá biên giới Israel trong mấy năm nay. Hay về Syrie đã khiêu khích. Hay về Israël đã tàu nhẫn “trừng trị” Jordanie vì Jordanie để cho nửa triệu dân tản cư Ả Rập khốn khổ, dung túng bọn Fedayin (cảm tử quân Ả Rập). Hay về Ai Cập đã phong toả eo biển Tiran? Hay về U Thant đã vội vã rút quân mũ xanh ra khỏi Sinaï và Gaza. Hay về Nga, Mỹ đã khuyến khích gà của họ đá nhau mà đứng ngoài ngó? Rồi bàn tay của Pháp nữa có thực là sạch trông khi cung cấp những phi cơ Mirage cho Israël? Vấn đề lần này thực rắc rối, không giản dị như lần trước, Israël lại được cái tiếng là tự lực chiến đấu một mình, đương đầu với bốn nước Ai Cập, Jordanie, Syrie, Iraq, mà thắng một cách quá rực rỡ, nên được cảm tình của nhiều nước: bao giờ người ta cũng quý những kẻ biết dũng cảm hy sinh!
Vì tất cả những lý do đó, khối Ả Rập rất yếu, nước nào cũng lo tự cứu mình, mà sự chia rẽ lại trầm trọng hơn trước nữa.
Trong hội nghị Khartoum tại thủ đô của Soudan tháng tám 1967, Ai Cập muốn đoàn kết lại để tìm một giải pháp chung, nhưng hội nghị thất bại.
Mười mấy nước Ả Rập chia làm hai phe: phe các nước “cách mạng” (Ai Cập, Algérie, Syrie, Soudan, Yemen, Iraq) và phe các nước “bảo thủ” (Ả Rập Séoudite, Jordanie, Maroc, Tunisie, Lybie, Liban, Kuwait). Phe bảo thủ ngại ảnh hưởng của Ả Rập ngày một mạnh, họ sợ Nga hơn sợ Do Thái, mà lại muốn bán dầu lửa cho Anh, Mỹ, Tây Đức. Còn phe “cách mạng” đòi tiếp tục ngưng bán dầu lửa để trừng phạt Âu, Mỹ. Quyền lợi xung đột nhau nặng. Hội nghị thượng đỉnh đó vì vậy mà khai mạc trong bầu không khi gượng gạo, chán nản.
Nasser lúc này đã khôn ngoan, không có giọng kịch liệt như hồi tháng sáu nữa, đề nghị một chiến sách thực tế để đối phó với Israël (thực tế có nghĩa là hoà hoãn, chờ thời) và để tỏ thiện chí đoàn kết, ông ta đề nghị với Faycal (Ả Rập Séoudite) hai bên cùng rút quân ra khỏi Yemen, đừng tranh chấp nhau ở đó nữa.
Fayçal ủng hộ phe quản chủ của Yemen, Nasser ủng hộ phe cộng hoà). Fayçal bằng lòng, Nasser nhờ vậy rút được 15.000 quân về Ai Cập để củng cố lực lượng. Đó là kết quả duy nhất của hội nghị.
Ông lại đề nghị dùng giải pháp chính trị, thương thuyết với Do Thái, vì hiểu rằng còn lâu mới dùng võ lực được, mà ông lại đương gặp nhiều khó khăn trong nội bộ, lo có đảo chính, nên đã cách chức, thuyên chuyển 700 sĩ quan, lại quản thúc tại gia thống chế Amer, cựu phó tổng thống, cựu Tham mưu trưởng và cũng là bạn thân của ông, đến nỗi Amer phải tự tử.
Đề nghị của ông bị bác. Hội nghị không chủ chiến (vì không đủ lực lượng) mà cũng không chủ hoà (vì mất mặt). Cuối cùng hội nghị đưa ra ba quyết nghị lừng chừng, chẳng ra đường lối gì cả: lại bán dầu lửa cho Tây phương, nhưng bãi bỏ mọi căn cứ Anh, Pháp, Mỹ trên lãnh thổ Ả Rập, nhất định không thương thuyết với Israël.
Không biết họ có theo đúng đề nghị đó không, chỉ biết rằng Hussein đã có một đường lối riêng.
Jordanie đã nhỏ, nghèo, nay bị mất miền phía Tây sông Jourdain dân số còn độ 600-700 ngàn, tài nguyên còn không được 50% làm sao đứng vững nổi, cho nên quốc vương Hussein phải xoay xở. Ông ta cương quyết mà khôn ngoan, đã qua Ả Rập Séoudite xin viện trợ (từ trước hai nước vẫn thân với nhau), rồi lại sang Nga. Nga niềm nở tiếp ông, hứa viện trợ khí giới nếu ông ta rời khỏi ảnh hưởng Anh, Mỹ. Ở Nga về, ông ta lại qua Mỹ, xem nước nào sẽ giúp ông được nhiều. Cơ hồ ông còn tính thương thuyết cả với Israel nữa để Israel trả lại cho ông miền đất họ chiếm, ông biết rằng không trông cậy gì ở khối của mình được, đành phải qua Đông, qua Tây, ông không lo cho tính mạng ông chăng? Con người đó vốn can đảm; kẻ thù đáng ngại nhất của ông là Nasser, mà chính Nasser lúc này cũng muốn ngoại giao với Israel, thì ông còn lo gì nữa.
***
Tình hình khối Ả Rập như vậy, tinh hình của Israel sáng sủa hơn. Chiếm được ba miền của Ả Rập (ở Sinaï, Jordanie, Syrie) bắt được vô số khí giới trị giá tới hai tỷ Mỹ kim, tinh thần dân chúng lên cao, cảm tình của thế giới cũng tăng, được Mỹ, Anh ủng hộ, nên Israël có một thái độ cương quyết ở Liên hiệp quốc.
Cương quyết mà kể ra cũng ôn hoà: Đại diện Israël tuyên bố không có ý chiếm lãnh thổ Ả Rập, chỉ đòi thương thuyết trực tiếp với cả khối Ả Rập, ký một hoà ước bảo đảm biên giới Israël, được thông thương trên kinh Suez và ở vịnh Akaba, và sẵn sàng giúp Ả Rập phát triển kinh tế, cho Jordanie thông thương ra phía Địa Trung Hải. Như vậy buộc các quốc gia Ả Rập phải thừa nhận quốc gia Israël.
Ả Rập không chịu thương thuyết thẳng với Israël và đòi Liên hiệp quốc bắt Israël trả lại hết những đất đã chiếm được.
Nga bị Ả Rập trách cứ nặng, thấy uy tín của mình bị tổn thương, nhất là bị Trung Cộng tố cáo là âm mưu với Mỹ, làm hại đồng minh Ả Rập, nên phải tỏ một thái độ cứng rắn với Israël, lên án Israël một cách gắt gao, đòi Hội đồng bảo an phải tuyên bố Israël là kẻ gây hấn và buộc Israël rút quân về vị trí cũ. Nhưng ngoài mặt như vậy chứ Nga cũng dư biết rằng thế của phe mình yếu nên Kosygin trước khi đích thân đến dự khoá họp bất thường của Hội đồng Liên hiệp quốc đã gặp tướng De Gaulle và sau lại gặp Johnson ở Glossboro, nghĩa là ông ta muốn dùng chính sách ngoại giao, biết rằng gây với Mỹ ở Tây Á lúc này không có lợi: dùng chiến tranh nguyên tử là điều ông muốn tránh, mà dùng chiến tranh cổ điển thì Nga không thắng Mỹ được, đã thua ở Berlin, ở Cuba vì không đủ phương tiện võ trang cổ điển; không có đủ quân lực cổ điển để can thiệp vào những chiến tranh địa phương, nhất là vì bọn đàn em của ông ở Ả Rập tỏ ra tồi quá.
Mỹ tuy đã thắng lợi tinh thần rất lớn ở Tây Á, nhưng tỏ thái độ dè dặt vì không muốn làm Nga bất bình (chiến tranh Việt Nam đương tới hồi kịch liệt cũng không muốn làm các quốc gia “bảo thủ” ở Tây Á phật ý (Mỹ còn nhiều mỏ dầu ở đó), nên ủng hộ Israël một cách kín đáo, tìm cách nào có thể bảo đảm được tương lai của Israël mà không để cho các Quốc gia Ả Rập mất mặt. Nhưng Johnson chưa tìm ra được giải pháp nào cả.
Tháng 8-1967, Tito đưa ra một giải pháp: Israël trả lại những đất đai đã chiếm, các cường quốc hay Liên hiệp quốc sẽ bảo đảm biên giới Israël, Ai Cập sẽ lấy lại chủ quyền ở eo biển Tiran, nhưng tàu Israël được qua lại tự do ở Hồng Hải và cả ở kênh Suez nữa với điều kiện là mang cờ của Liên hiệp quốc hay của một đệ tam quốc gia.
Ả Rập không chấp luận giải pháp đó mà Israël cũng không muốn trở lại biên giới cũ. Hồi tháng sáu, Israël không có ý chiếm đất của Ả Rập, nghĩa là có ý muốn trả lại đất đã chiếm. Tại sao có sự thay đổi thái độ đó?
Có ba nguyên nhân: phe cương quyết Moshé Dayan, Ben-Gurion đã thắng phe ôn hoà Eshkol; Israel thấy khối Ả Rập chia rẽ, Nasser và Hussein muốn điều đình; và có lẽ cũng vì lòng căm thù Israel ở các khu Israel chiếm được có mòi tăng lên: dân Ả Rập ở Jordanie và các nơi khác đình công, bãi thị bất hợp lác với Israel, có một số người Ả Rập bèn dùng chiến tranh du kích để quấy phá Israel, và sẽ nhờ Trung Cộng huấn luyện. Đó là tình trạng tới cuối năm 1967. Vấn đề còn bỏ lửng. Từ đầu năm 1968, báo chí không nhắc tới vụ Tây Á, như quên hẳn đi mà chăm chú theo dõi vấn đề Việt Nam. Nhưng vài tháng gần đây lại xảy ra vài vụ rắc rối: tháng 9-1968 Jordanie và Israel giao tranh với nhau; tháng 11-1968, Ai Cập oanh tạc Do Thái ở bờ kênh Suez (15 Do Thái chết, 34 bị thương); Mỹ, Nga muốn dàn xếp mà không xong; cơ hồ như Nasser lại đòi giải phóng Ả Rập nữa. Hai bên vẫn chuẩn bị chiến tranh và đất đai Ả Rập vẫn bị Do Thái chiếm đóng.
Nhưng từ sau thế chiến tới nay, trên thế giới có một chuyện gì giải quyết được đâu: vấn đề Đức Quốc còn đó, vấn đề Đài Loan, Hương Cảng còn đó. Đại Hàn tạm yên được mười lăm năm, bây giờ lại bắt đầu khuấy động, vụ tranh chấp Hồi-Ấn cũng chưa êm, nhất là chiến tranh Việt Nam.
Nào phải chỉ có Tây Á, khắp châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu, đâu đâu tình hình cũng mỗi ngày một thêm rối. Thế chiến thứ nhì đâu đã kết thúc, nó chỉ chuyển qua một hình thức khác thôi.
Có thể vấn đề Ả Rập - Israel cứ lằng nhằng như vậy trong ít lâu, rồi có lúc sẽ bùng trở lại Không ai có thể đoán trước được lúc đó sẽ ra sao.
Một số nhà trí thức Israel đã nghĩ hai bên nên bỏ bớt tinh thần kỳ thị tôn giáo, chủng tộc, hy vọng một ngày kia các nhả cầm quyền Ả Rập có tinh thần dân chủ hơn, lúc đó sự xung đột sẽ giảm mà hai dân tộc có thể sống chung với nhau được.
Nhưng như vậy là cho rằng các nước nhược tiểu có thể tự giải quyết vấn đề với nhau, mà hiện lúc này và không biết tới bao giờ nữa, các nước nhược tiểu luôn luôn tự ý hay bắt buộc phải làm những quân tốt cho các quốc gia anh chị trên bàn cờ quốc tế.
Vả lại cuộc xung đột Israel - Ả Rập nào phải chỉ do những nguyên nhân tôn giáo, chủng tộc, còn nguyên nhân kinh tế nữa. Giải quyết cách nào được vấn đề tị nạn của non triệu người Ả Rập bỏ nhà cửa, đất đai, mà sống nhờ sống gởi, lay lắt ở Gaza, Jordanie kia?
Theo “La guerre de six jours” của Samuel Seguev(trang 154 – 155), cuộc mật đàm đó được ghi lại đại ý như sau:
Nasser hỏi Hussein có nên loan báo rằng Mỹ và Anh đã hợp tác với Israel không, hay nên chỉ loan báo một mình Mỹ đã hợp tác thôi.
Hussein đáp nên loan báo cả hai đã, hợp tác với Israel.
Nasser hỏi lại: Thế nhưng Anh có hàng không mẫu hạm không?
Hussein đáp: Có.
Nasser bảo: Như vậy được. Tôi sẽ ra một báo cáo. Phía ngài cũng vậy. Chúng ta cùng tuyên bố rằng phi cơ Mỹ và Anh xuất phát từ hàng không mẫu hạm của họ và tấn công chúng ta.
Vài giờ sau đài phát thanh Le Caire ra thông cáo rằng:
“Bộ chỉ huy tối cao Ai Cập đã phát giác sáng nay Mỹ và Anh đã tham dự các cuộc tấn công Ai Cập bằng phi cơ, cùng với không quân Israel (…). Phi cơ Mỹ và Anh đã yểm hộ không trung Israel. Các đài radar Jordanie cũng phát giác được nhiều phi cơ Mỹ và Anh”.
Tiếp theo các đài Jordanie và Syrie đăng tuyên bố như vậy. Vài quốc gia Ả Rập như Algérie, Iraq, Yemen, Soudan tin thật và muốn tuyệt giao với Mỹ, Anh.
Nhưng Kosygin không tin, báo chí Nga không lên tiếng, vì hệ thống radar của Nga không thấy một dấu hiệu nào tỏ rằng các hàng không mẫu hạm Anh, Mỹ hoạt động ở phía bán đảo Ả Rập.
Anh và Mỹ lên tiếng đính chính. Sau này Hussein thú thực rằng chuyện đó hoàn toàn bịa.
Tối 5-6-1967, Nasser tiếp xúc với sứ thần Nga ở Le Caire, yêu cầu Nga cung cấp ngay cho Ai Cập một số phi cơ để thay thế các phi cơ bị phá hủy. Sứ thần Nga hỏi lại: Các phi trường Ai Cập một phần lớn hư hại, một phần còn lại thì ở trong tầm súng đại bác của Israel, hoặc chưa dùng ngay được vì thiếu trang bị, có gởi phi cơ tới thì để ở đâu? Còn như gởi qua Lybie, chỉ cách căn cứ Villos Field có vài cây số thì khác gì khiêu khích Mỹ.
Nasser rất uất ức, trách Nga đã hứa đủ điều, nào là “chỉ những lúc khó khăn mới biết ai là bạn thân”, rồi “bây giờ bỏ rơi Ai Cập”. Đại sứ Nga đáp lại rằng Nga đã hứa can thiệp là khi nào Mỹ can thiệp trực tiếp kia, còn như chỉ có Israel và Ả Rập giao chiến với nhau thì Nga lấy lẽ gì mà can thiệp?
Nasser lúc đó ngã ngửa ra: ông quá tin vào Nga, có lẽ vì không hiểu chính sách sống chung hoà bình của Nga.
Nhưng chính Nga cũng ngượng mặt: gà nòi của mình không ngờ tệ hại như vậy. Nếu bỏ mặc Ai Cập thì mất mặt mình. Đành phải một mặt bênh vực ít lời ở Liên hiệp quốc, một mặt giúp đỡ Ai Cập tổ chức xây dựng lại binh lực.
Ngày 9-6-1967, Nasser tuyên bố với quốc dân, tự nhận hết lỗi và xin từ chức. Giọng ông rất thành thực, cảm động. Nhưng dân Ai Cập giữ ông lại vì xét ra chẳng có ai hơn ông. Vả lại, năm 1956 ông ta đã thắng cả Anh, Pháp và Israel thì lần này có thua Israel cũng là chuyện thường Trong bản diễn văn từ chức ông ta nói: “Hễ diệt được thực dân phương Tây thì Israel sẽ cô lập ở giữa các quốc gia Ả Rập. Dù hoàn cảnh ra sao, dù có cần một thời gian lâu dài thì rốt cuộc các lực lượng Ả Rập cũng sẽ dìm được Israel. Vậy chúng ta sẽ tiếp tục chiến đấu”.
Để tiếp tục cuộc chiến đấu sau này, Nasser xin Nga giúp đỡ vũ khí nữa. Một cầu hàng không cũng lớn như cầu hàng không của Mỹ ở Tây Berlin năm 1949, đã đổ xuống Ai Cập và Syrie vô số chiến xa, đại bác, thay thế, được 80% những tổn thất của Ả Rập. Để thay thế 15.000 quân bị giết, bị thương, Nasser gọi những lính từ Yemen về. Thủ đô Le Caire vẫn ở trong tình trạng phòng thủ. Người ta tuyển thêm dân quân, cải tổ chính phủ. Nasser kiêm luôn chức Thủ tưởng, cách chức viên Tổng tham mưu trưởng, tổ chức lại quân đội, phái người qua Nga nghiên cứu binh bị. Nga cũng phái nguyên soái Zakharov qua Ai Cập để tìm nguyên bại trận của Ả Rập và tỏ vẻ bất mãn về năng lực kém cỏi của quân đội Ai Cập. Vậy ra mấy trăm huấn luyện viên quân sự của Nga trong mười năm nay không huấn luyện được gì ư, và mù tịt về thực lực chiến đấu của học trò mình ư?
Các quốc gia khác cũng đua nhau võ trang: Syrie bị Israel phá 90% không lực, mua 25 chiếc MiG-21. Algérie, Iraq cũng xin Đông Âu súng đạn, Jordanie qua Ả Rập Saudi xin viện trợ, nói là tăng cường quân đội để trả thủ Do Thái, nhưng sự thực là để duy trì địa vị của họ ở trong nước.
Chuyện đó gấp nhất. Dân chúng nước nào cũng bất mẫn, thấy rõ bọn cầm quyền bất lực mà lại huênh hoang, nói láo một cách trắng trợn; thua liểng xiểng mà vẫn tuyên bố là “đại thắng, đã tới sát Tel Aviv, đương tận diệt Do Thái”.
Còn cả nạn kinh tế khó khăn nữa. Nước nào cũng thiếu tiền, kinh Suez đóng cửa. Ai Cập thiệt mỗi tuần một triệu rưỡi Mỹ kim. Thành Jérusalem bị Israel chiếm, Jordanie hết thu hoạch được tiền của du khách: 34 triệu Mỹ kim một năm, khu đất ở tây ngạn sông Jourdain sản xuất tới 80% ô-liu, 65% rau, 60% trái cây của toàn quốc, nay về Israel. Các nước khác như Ả Rập Saudi, Iraq, Kuwait vì tuyệt giao với Anh Mỹ không bán dầu cho họ nữa, cũng hao hư rất nặng.
Nội trị như vậy, còn ngoại giao thì họ cũng ở trong một thế yếu. Năm 1956, khắp thế giới bênh vực Ai Cập, mạt sát Israël vì Israël nổ súng trước và nhất là vì Israel theo đuôi Anh-Pháp, làm quân tốt cho Anh, Pháp. Lần này Israël cũng nổ súng trước nhưng người ta không cho điều đó là quan trọng. Ngay như De Gaulle ngày 2-6-1967, còn tuyên bố là nước nào gây hấn trước thì cũng sẽ bị Pháp phản đối, vậy mà khi chiến tranh bùng nổ ông ta cũng làm thinh. Hơn nữa dân chúng Pháp còn biểu tình ủng hộ Israël.
Ấn Độ, Miến Điện, Mã Lai… lần này cũng không lên tiếng. Người ta không hỏi: Nước nào nổ súng trước, mà hỏi nước nào muốn gây chiến? Lỗi về Jordanie đã quấy phá biên giới Israel trong mấy năm nay. Hay về Syrie đã khiêu khích. Hay về Israël đã tàu nhẫn “trừng trị” Jordanie vì Jordanie để cho nửa triệu dân tản cư Ả Rập khốn khổ, dung túng bọn Fedayin (cảm tử quân Ả Rập). Hay về Ai Cập đã phong toả eo biển Tiran? Hay về U Thant đã vội vã rút quân mũ xanh ra khỏi Sinaï và Gaza. Hay về Nga, Mỹ đã khuyến khích gà của họ đá nhau mà đứng ngoài ngó? Rồi bàn tay của Pháp nữa có thực là sạch trông khi cung cấp những phi cơ Mirage cho Israël? Vấn đề lần này thực rắc rối, không giản dị như lần trước, Israël lại được cái tiếng là tự lực chiến đấu một mình, đương đầu với bốn nước Ai Cập, Jordanie, Syrie, Iraq, mà thắng một cách quá rực rỡ, nên được cảm tình của nhiều nước: bao giờ người ta cũng quý những kẻ biết dũng cảm hy sinh!
Vì tất cả những lý do đó, khối Ả Rập rất yếu, nước nào cũng lo tự cứu mình, mà sự chia rẽ lại trầm trọng hơn trước nữa.
Trong hội nghị Khartoum tại thủ đô của Soudan tháng tám 1967, Ai Cập muốn đoàn kết lại để tìm một giải pháp chung, nhưng hội nghị thất bại.
Mười mấy nước Ả Rập chia làm hai phe: phe các nước “cách mạng” (Ai Cập, Algérie, Syrie, Soudan, Yemen, Iraq) và phe các nước “bảo thủ” (Ả Rập Séoudite, Jordanie, Maroc, Tunisie, Lybie, Liban, Kuwait). Phe bảo thủ ngại ảnh hưởng của Ả Rập ngày một mạnh, họ sợ Nga hơn sợ Do Thái, mà lại muốn bán dầu lửa cho Anh, Mỹ, Tây Đức. Còn phe “cách mạng” đòi tiếp tục ngưng bán dầu lửa để trừng phạt Âu, Mỹ. Quyền lợi xung đột nhau nặng. Hội nghị thượng đỉnh đó vì vậy mà khai mạc trong bầu không khi gượng gạo, chán nản.
Nasser lúc này đã khôn ngoan, không có giọng kịch liệt như hồi tháng sáu nữa, đề nghị một chiến sách thực tế để đối phó với Israël (thực tế có nghĩa là hoà hoãn, chờ thời) và để tỏ thiện chí đoàn kết, ông ta đề nghị với Faycal (Ả Rập Séoudite) hai bên cùng rút quân ra khỏi Yemen, đừng tranh chấp nhau ở đó nữa.
Fayçal ủng hộ phe quản chủ của Yemen, Nasser ủng hộ phe cộng hoà). Fayçal bằng lòng, Nasser nhờ vậy rút được 15.000 quân về Ai Cập để củng cố lực lượng. Đó là kết quả duy nhất của hội nghị.
Ông lại đề nghị dùng giải pháp chính trị, thương thuyết với Do Thái, vì hiểu rằng còn lâu mới dùng võ lực được, mà ông lại đương gặp nhiều khó khăn trong nội bộ, lo có đảo chính, nên đã cách chức, thuyên chuyển 700 sĩ quan, lại quản thúc tại gia thống chế Amer, cựu phó tổng thống, cựu Tham mưu trưởng và cũng là bạn thân của ông, đến nỗi Amer phải tự tử.
Đề nghị của ông bị bác. Hội nghị không chủ chiến (vì không đủ lực lượng) mà cũng không chủ hoà (vì mất mặt). Cuối cùng hội nghị đưa ra ba quyết nghị lừng chừng, chẳng ra đường lối gì cả: lại bán dầu lửa cho Tây phương, nhưng bãi bỏ mọi căn cứ Anh, Pháp, Mỹ trên lãnh thổ Ả Rập, nhất định không thương thuyết với Israël.
Không biết họ có theo đúng đề nghị đó không, chỉ biết rằng Hussein đã có một đường lối riêng.
Jordanie đã nhỏ, nghèo, nay bị mất miền phía Tây sông Jourdain dân số còn độ 600-700 ngàn, tài nguyên còn không được 50% làm sao đứng vững nổi, cho nên quốc vương Hussein phải xoay xở. Ông ta cương quyết mà khôn ngoan, đã qua Ả Rập Séoudite xin viện trợ (từ trước hai nước vẫn thân với nhau), rồi lại sang Nga. Nga niềm nở tiếp ông, hứa viện trợ khí giới nếu ông ta rời khỏi ảnh hưởng Anh, Mỹ. Ở Nga về, ông ta lại qua Mỹ, xem nước nào sẽ giúp ông được nhiều. Cơ hồ ông còn tính thương thuyết cả với Israel nữa để Israel trả lại cho ông miền đất họ chiếm, ông biết rằng không trông cậy gì ở khối của mình được, đành phải qua Đông, qua Tây, ông không lo cho tính mạng ông chăng? Con người đó vốn can đảm; kẻ thù đáng ngại nhất của ông là Nasser, mà chính Nasser lúc này cũng muốn ngoại giao với Israel, thì ông còn lo gì nữa.
***
Tình hình khối Ả Rập như vậy, tinh hình của Israel sáng sủa hơn. Chiếm được ba miền của Ả Rập (ở Sinaï, Jordanie, Syrie) bắt được vô số khí giới trị giá tới hai tỷ Mỹ kim, tinh thần dân chúng lên cao, cảm tình của thế giới cũng tăng, được Mỹ, Anh ủng hộ, nên Israël có một thái độ cương quyết ở Liên hiệp quốc.
Cương quyết mà kể ra cũng ôn hoà: Đại diện Israël tuyên bố không có ý chiếm lãnh thổ Ả Rập, chỉ đòi thương thuyết trực tiếp với cả khối Ả Rập, ký một hoà ước bảo đảm biên giới Israël, được thông thương trên kinh Suez và ở vịnh Akaba, và sẵn sàng giúp Ả Rập phát triển kinh tế, cho Jordanie thông thương ra phía Địa Trung Hải. Như vậy buộc các quốc gia Ả Rập phải thừa nhận quốc gia Israël.
Ả Rập không chịu thương thuyết thẳng với Israël và đòi Liên hiệp quốc bắt Israël trả lại hết những đất đã chiếm được.
Nga bị Ả Rập trách cứ nặng, thấy uy tín của mình bị tổn thương, nhất là bị Trung Cộng tố cáo là âm mưu với Mỹ, làm hại đồng minh Ả Rập, nên phải tỏ một thái độ cứng rắn với Israël, lên án Israël một cách gắt gao, đòi Hội đồng bảo an phải tuyên bố Israël là kẻ gây hấn và buộc Israël rút quân về vị trí cũ. Nhưng ngoài mặt như vậy chứ Nga cũng dư biết rằng thế của phe mình yếu nên Kosygin trước khi đích thân đến dự khoá họp bất thường của Hội đồng Liên hiệp quốc đã gặp tướng De Gaulle và sau lại gặp Johnson ở Glossboro, nghĩa là ông ta muốn dùng chính sách ngoại giao, biết rằng gây với Mỹ ở Tây Á lúc này không có lợi: dùng chiến tranh nguyên tử là điều ông muốn tránh, mà dùng chiến tranh cổ điển thì Nga không thắng Mỹ được, đã thua ở Berlin, ở Cuba vì không đủ phương tiện võ trang cổ điển; không có đủ quân lực cổ điển để can thiệp vào những chiến tranh địa phương, nhất là vì bọn đàn em của ông ở Ả Rập tỏ ra tồi quá.
Mỹ tuy đã thắng lợi tinh thần rất lớn ở Tây Á, nhưng tỏ thái độ dè dặt vì không muốn làm Nga bất bình (chiến tranh Việt Nam đương tới hồi kịch liệt cũng không muốn làm các quốc gia “bảo thủ” ở Tây Á phật ý (Mỹ còn nhiều mỏ dầu ở đó), nên ủng hộ Israël một cách kín đáo, tìm cách nào có thể bảo đảm được tương lai của Israël mà không để cho các Quốc gia Ả Rập mất mặt. Nhưng Johnson chưa tìm ra được giải pháp nào cả.
Tháng 8-1967, Tito đưa ra một giải pháp: Israël trả lại những đất đai đã chiếm, các cường quốc hay Liên hiệp quốc sẽ bảo đảm biên giới Israël, Ai Cập sẽ lấy lại chủ quyền ở eo biển Tiran, nhưng tàu Israël được qua lại tự do ở Hồng Hải và cả ở kênh Suez nữa với điều kiện là mang cờ của Liên hiệp quốc hay của một đệ tam quốc gia.
Ả Rập không chấp luận giải pháp đó mà Israël cũng không muốn trở lại biên giới cũ. Hồi tháng sáu, Israël không có ý chiếm đất của Ả Rập, nghĩa là có ý muốn trả lại đất đã chiếm. Tại sao có sự thay đổi thái độ đó?
Có ba nguyên nhân: phe cương quyết Moshé Dayan, Ben-Gurion đã thắng phe ôn hoà Eshkol; Israel thấy khối Ả Rập chia rẽ, Nasser và Hussein muốn điều đình; và có lẽ cũng vì lòng căm thù Israel ở các khu Israel chiếm được có mòi tăng lên: dân Ả Rập ở Jordanie và các nơi khác đình công, bãi thị bất hợp lác với Israel, có một số người Ả Rập bèn dùng chiến tranh du kích để quấy phá Israel, và sẽ nhờ Trung Cộng huấn luyện. Đó là tình trạng tới cuối năm 1967. Vấn đề còn bỏ lửng. Từ đầu năm 1968, báo chí không nhắc tới vụ Tây Á, như quên hẳn đi mà chăm chú theo dõi vấn đề Việt Nam. Nhưng vài tháng gần đây lại xảy ra vài vụ rắc rối: tháng 9-1968 Jordanie và Israel giao tranh với nhau; tháng 11-1968, Ai Cập oanh tạc Do Thái ở bờ kênh Suez (15 Do Thái chết, 34 bị thương); Mỹ, Nga muốn dàn xếp mà không xong; cơ hồ như Nasser lại đòi giải phóng Ả Rập nữa. Hai bên vẫn chuẩn bị chiến tranh và đất đai Ả Rập vẫn bị Do Thái chiếm đóng.
Nhưng từ sau thế chiến tới nay, trên thế giới có một chuyện gì giải quyết được đâu: vấn đề Đức Quốc còn đó, vấn đề Đài Loan, Hương Cảng còn đó. Đại Hàn tạm yên được mười lăm năm, bây giờ lại bắt đầu khuấy động, vụ tranh chấp Hồi-Ấn cũng chưa êm, nhất là chiến tranh Việt Nam.
Nào phải chỉ có Tây Á, khắp châu Á, châu Phi, châu Mỹ, châu Âu, đâu đâu tình hình cũng mỗi ngày một thêm rối. Thế chiến thứ nhì đâu đã kết thúc, nó chỉ chuyển qua một hình thức khác thôi.
Có thể vấn đề Ả Rập - Israel cứ lằng nhằng như vậy trong ít lâu, rồi có lúc sẽ bùng trở lại Không ai có thể đoán trước được lúc đó sẽ ra sao.
Một số nhà trí thức Israel đã nghĩ hai bên nên bỏ bớt tinh thần kỳ thị tôn giáo, chủng tộc, hy vọng một ngày kia các nhả cầm quyền Ả Rập có tinh thần dân chủ hơn, lúc đó sự xung đột sẽ giảm mà hai dân tộc có thể sống chung với nhau được.
Nhưng như vậy là cho rằng các nước nhược tiểu có thể tự giải quyết vấn đề với nhau, mà hiện lúc này và không biết tới bao giờ nữa, các nước nhược tiểu luôn luôn tự ý hay bắt buộc phải làm những quân tốt cho các quốc gia anh chị trên bàn cờ quốc tế.
Vả lại cuộc xung đột Israel - Ả Rập nào phải chỉ do những nguyên nhân tôn giáo, chủng tộc, còn nguyên nhân kinh tế nữa. Giải quyết cách nào được vấn đề tị nạn của non triệu người Ả Rập bỏ nhà cửa, đất đai, mà sống nhờ sống gởi, lay lắt ở Gaza, Jordanie kia?
----------------------------------------------------------------------------------------------
TRITRI.org - SÁNG TẠO ĐỔI MỚI
Thích ứng thay đổi * Chủ động sáng tạo * Dẫn dắt thành công
{ 0 nhận xét... read them below or add one }
Đăng nhận xét